Bản án 51/2018/HNGĐ-ST ngày 24/04/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 51/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 32/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2018 về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đăng T; địa chỉ: Thôn 4, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Bà Phạm Thị S; nơi cư trú cuối cùng: Thôn 4, xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 01/01/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Đăng T (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Ông Nguyễn Đăng T và bà Phạm Thị S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 10/12/1983. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, nghi ngờ lòng chung thủy của nhau dẫn tới vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Bà S bỏ nhà đi từ năm 2011 đến nay vẫn không trở về. Ông Nguyễn Đăng T đã yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích đối với bà S, ngày 27/9/2017, Tòa án nhân dân huyện T đã ra quyết định tuyên bố mất tích đối với bà Phạm Thị S. Nay, ông T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông T được ly hôn bà Phạm Thị S.

Về con chung: Ông Nguyễn Đăng T khai ông và bà Phạm Thị S có hai con chung tên Nhân Tiết Q, sinh ngày 05/10/1987 và Nguyễn Đăng T, sinh ngày 06/9/1985. Hiện nay các con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động nên ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Ông Nguyễn Đăng T khai ông và bà Phạm Thị Sinh không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng tại nơi cư trú cuối cùng của bị đơn là bà Phạm Thị S, song bà Sinh đều vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên tòa.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện chưa đúng quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Đăng T và bà Phạm Thị S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ông T được ly hôn bà S. Về con chung và tài sản chung, đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là ông Nguyễn Đăng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng ông T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bà Phạm Thị S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt, song đã có quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đối với bà Phạm Thị Sinh. Căn cứ khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông T và bà S.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Đăng T và bà Phạm Thị S được xác lập năm 1983 là hợp pháp. Tài liệu điều tra thể hiện quá trình chung sống vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến bà S bỏ nhà đi từ năm 2011 đến nay không trở về. Ông Nguyễn Đăng T đã yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích đối với bà S. Ngày 27/9/2017, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã ra quyết định tuyên bố mất tích số 10/2017/QDDS-ST đối với bà Phạm Thị S. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà S đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho ông T và bà S được ly hôn.

[3] Về con chung: Ông Nguyễn Đăng T và bà Phạm Thị S có hai con chung tên Nhân Tiết Q, sinh ngày 05/10/1987 và Nguyễn Đăng T, sinh ngày 06/9/1985. Hiện các con chung đều đã thành niên và có khả năng lao động nên ông Tài không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung: Ông Nguyễn Đăng T khai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì ông Nguyễn Đăng T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Khoản 1 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Nguyễn Đăng T và bà Phạm Thị S.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Đăng T phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng ông T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0008665 ngày 11 tháng 01 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, ông Nguyễn Đăng T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Đăng T và bà Phạm Thị S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2018/HNGĐ-ST ngày 24/04/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:51/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về