Bản án 51/2018/HNGĐ-ST ngày 14/06/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 51/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 14/6/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 493/2017/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2017 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2018/QĐXX-ST ngày 02 tháng 5 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số: 36/QĐ-HPT ngày 25/5/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Phương Th, sinh năm 1994.

Địa chỉ: KDC 6, ấp 1, xã Phú Ngọc, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Anh Nguyễn Thế Ph, sinh năm 1989

Địa chỉ: KDC 6, ấp 1, xã Phú Ngọc, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vằng mặt tại phiên toà.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 08/11/2017; Bản tự khai, lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Phương Th trình bày:

Chị Thảo và anh Nguyễn Thế Ph tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2011 tại UBND xã Phú Ngọc, huyện Định Quán. Vợ chồng thời gian đầu sống chung hạnh phúc. Mâu thuẫn phát sinh từ năm 2015, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do anh Ph thường hay uống rượu về chửi bới, xúc phạm, đánh đập chị, đập phá đồ đạc trong nhà, không chăm lo cho gia đình. Đến tháng 5/2017 chị cùng với 02 con bỏ về nhà cha mẹ đẻ để sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ thời gian đó đến nay. Mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải để vợ chồng hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu ly hôn với anh Ph.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Bảo An, sinh ngày 15/01/2012, và cháu Nguyễn Bảo Ch, sinh ngày 05/7/2014. Chị Th yêu cầu nuôi cả 02 con chung, không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: đương sự khai không có.

Về nợ chung: không có nợ chung.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 09/3/2018, chị Nguyễn Thị Kim L – là chị ruột của bị đơn anh Nguyễn Thế Ph trình bày:

Việc mâu thuẫn giữa hai vợ chồng chị Th và anh Ph là có thật. Hai vợ chồng đã sống ly thân gần 01 năm nay, gia đình hai bên có khuyên bảo để vợ chồng Phụng hàn gắn tình cảm vợ chồng, nhưng không được. Các văn bản của Tòa án đã giao cho anh Phụng, gia đình cũng nói anh Ph đến Tòa án làm việc nhưng Ph không đồng ý đến Tòa án làm việc và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định, Ph không có ý kiến gì.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành đầy đủ theo quy định; bị đơn đã triệu tập hơp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung là đúng quy định.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp và do tòa án thu thập thì mâu thuẫn giữa chị Th và anh Ph là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

(1) Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các trình tự thủ tục, tống đạt hợp lệ cho các bên đương sự, các đương sự không thắc mắc khiếu nại gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng Thẩm phán giải quyết vụ án nên các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng đều hợp pháp. Về việc vắng mặt của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

(2) Về nội dung:

Tại phiên tòa, người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không bổ sung, yêu cầu gì thêm.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Th thấy rằng, thực tế cuộc sống chung giữa chị và bị đơn anh Nguyễn Thế Ph có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, do anh Ph không lo làm ăn, bài bạc không chăm lo cho gia đình, thường xuyên uống rượu về đánh đập chị Thảo, vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 đến nay, nên chị Thảo khởi kiện yêu cầu ly hôn. Theo lời khai của chị Th và tài liệu Tòa án thu thập được thì vợ chồng chị và anh Nguyễn Thế Ph đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay không còn qua lại, chăm sóc lẫn nhau. Hội đồng xét xử thấy rằng: tình trạng hôn nhân của chị Th và anh Ph đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được và yêu cầu ly hôn của chị Thảo là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Bảo An, sinh ngày 15/01/2012, và cháu Nguyễn Bảo Ch, sinh ngày 05/7/2014. Xét yêu cầu nuôi con của chị Thảo thấy rằng: Sau khi vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 đến nay, chị Thảo là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con, anh Ph không quan tâm chăm sóc các con. Do đó việc giao 02 con cho chị Th là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp. Chị không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung: không xem xét giải quyết. Về nợ chung: không xem xét giải quyết.

Về án phí: Nguyên đơn phải nộp án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28; các Điều 35, 227, 235, 266 - Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83, 84 - Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Phương Th, chị Thảo được ly hôn với anh Nguyễn Thế Ph.

2. Về con chung: Giao 02 cháu Nguyễn Bảo An, sinh ngày 15/01/2012, và cháu Nguyễn Bảo Châu, sinh ngày 05/7/2014, cho chị Nguyễn Thị Phương Th trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Ph.

Anh Ph được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con, khi cần thiết anh chị có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: chị Thảo phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Chuyển tiền tạm ứng án phí chị Th đã nộp sang án phí theo biên lai thu tiền số 004570 ngày 06/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Định Quán, chị Th đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt được tính từ ngày nhận được bản án hoặc tòa án niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2018/HNGĐ-ST ngày 14/06/2018 về ly hôn

Số hiệu:51/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về