TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIÁ RAI, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 51/2018/DS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 29 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Giá Rai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 120/2018/TLST- DS ngày 24 tháng 7 năm 2018 về việc tranh chấp “Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2018/QĐXXST - DS ngày 25 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 47/2018/QĐST-DS ngày 12/11/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP K
Địa chỉ trụ sở: 40-42-44 Phạm Hồng T, phường Vĩnh Thanh V, thành phố R, tỉnh K.
Đại diện theo pháp luật: Bà Trần Tuấn A, chức vụ: Tổng giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Công T, chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch H – Chi nhánh B. Theo văn bản ủy quyền số 838/QĐ-NHKL ngày 19/6/2018 (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Phạm Văn C sinh năm 1971, địa chỉ: ấp Nhàn D A, xã T, thị xã G, tỉnh B và bà Tô Ánh N sinh năm 1976, địa chỉ: ấp K A, xã T, thị xã G, tỉnh B (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, các lời khai trong hồ sơ và tại phiên tòa, nguyên đơn Ngân hàng TMCP K – đại diện theo ủy quyền là anh Nguyễn Công T trình bày: Ngày 30/7/2014 Ngân hàng TMCP K và ông Phạm Văn C, bà Tô Ánh N có ký hợp đồng tín dụng số HD2025/HĐTD ngày 30/7/2014, số tiền vay 200.000.000 đồng, mục đích vay là bổ sung vốn thu mua tôm nguyên liệu, thời hạn vay 15 tháng, lãi trong hạn là 14,67%/năm. Lãi suất cho vay thay đổi 3 tháng 1 lần và được tính bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 13 tháng lãnh lãi cuối kỳ, tại thời điểm thay đổi lãi suất công 4,77%/năm. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay ngay trước thời điểm phát sinh nợ quá hạn. Hình thức thanh toán là lãi vay được trả 12 tháng 01 lần, vốn vay chia làm 02 kỳ: kỳ 1 trả vào ngày 30/7/2015 số tiền 1.000.000 đồng. Kỳ cuối trả phần còn lại khi đáo hạn hợp đồng. Tài sản thế chấp dùng để bảo đảm cho Hợp đồng tín dụng được ký kết bởi hợp đồng thế chấp HD2025/HĐTC ngày 30/7/2014 là Quyền sử dụng đất số BD 927264 do UBND huyện Giá Rai cấp ngày 17/01/2011 tọa lạc tại ấp K A, xã T, thị xã G, tỉnh B, diện tích 295,3m2 tại thửa số 20 tờ bản đồ số 81 do bà Tô Ánh N đứng tên. Hợp đồng thế chấp được chứng thực tại Phòng Công chứng số 1 tỉnh Bạc Liêu ngày 30/7/2014 và đăng ký giao dịch tiền bảo đảm ngày 30/7/2014 tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện G.
Từ ngày ký kết hợp đồng và nhận tiền vay, bên vay là ông C, bà N chỉ thanh toán 02 tháng tiền lãi với số tiền 4.971.500 đồng, từ ngày 30/9/2014 đến nay không trả lãi cũng không thanh toán vốn vay cho Ngân hàng TMCP K. Đến nay Hợp đồng tín dụng đã quá hạn thanh toán và người vay đã vi phạm hợp đồng về nghĩa vụ thanh toán. Do đó Ngân hàng TMCP K yêu cầu giải quyết buộc ông C bà N phải thanh toán cho ngân hàng số tiền vốn gốc vay 200.000.000 đồng, lãi trong hạn và quá hạn tính đến ngày 29/11/2018 là 177.805.667 đồng và tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng từ ngày 30/11/2018 cho đến ngày thanh toán hết nợ. Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và sau khi bản án có hiệu lực pháp luật mà ông C, bà N không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thực hiện không đầy đủ thì Ngân hàng TMCP K có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền kê bán đấu giá tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho ngân hàng.
Bị đơn là ông Phạm Văn C và bà Tô Ánh N không còn sinh sống tại nơi đăng ký thường trú, thay đổi nơi cư trú mới mà không thông báo cho nguyên đơn biết là cố tình giấu địa chỉ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng và xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 179, 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án thì Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử, xác định đúng thẩm quyền, đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thực hiện đúng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, việc gửi các văn bản cho Viện kiểm sát đầy đủ, đúng thời hạn. Tại phiên tòa hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Từ khi thụ lý đến khi xét xử những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72 và 234 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và các Điều 463, 466, 468, 470 của Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long về việc kiện đòi ông C, bà N trả số tiền vay và lãi, tạm tính đến ngày 29/11/2018 là 377.805.667 đồng (gồm tiền vốn là 200.000.000 đồng, tiền lãi trong hạn là 30.943.660 đồng, lãi quá hạn là 128.416.440 đồng, tiền phạt chậm trả lãi là 18.521.187 đồng) và lãi phát sinh cho đến ngày thanh toán dứt nợ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ yêu cầu của đượng sự tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng cho các bị đơn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng các bị đơn vắng mặt không lý do tại các buổi làm việc, phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Phạm Văn C, Tô Ánh N theo quy định tại Điều 179, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung vụ án:
Theo hợp đồng tín dụng số HD2025/HĐTD ngày 30/7/2014, ông Phạm Văn C, bà Tô Ánh N ký hợp đồng vay với Ngân hàng TMCP K, số tiền vay 200.000.000 đồng. Mục đích vay là bổ sung vốn thu mua tôm nguyên liệu, thời hạn vay 15 tháng, lãi trong hạn là 14,67%/năm. Lãi suất cho vay thay đổi 3 tháng 1 lần và được tính bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 13 tháng lãnh lãi cuối kỳ, tại thời điểm thay đổi lãi suất công 4,77%/năm. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay ngay trước thời điểm phát sinh nợ quá hạn. Hình thức thanh toán là lãi vay được trả 12 tháng 01 lần, vốn vay chia làm 02 kỳ: kỳ 1 trả vào ngày 30/7/2015 số tiền 1.000.000 đồng. Đến ngày 31/10/2015 ông C bà N không trả nợ theo thỏa thuận. Ngân hàng đã chuyển sang nợ quá hạn đối với hợp đồng vay của ông C bà N.
[3] Xét hợp đồng tín dụng số HD2025/HĐTD ngày 30/7/2014 giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, các bên ký kết hợp đồng thỏa mãn Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 nên hợp đồng tín dụng có hiệu lực pháp luật và buộc các bên phải có nghĩa vụ thi hành. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bị đơn chỉ trả được số tiền lãi là 4.971.500 đồng mà không thực hiện nghĩa vụ trả vốn gốc cùng lãi phát sinh. Do đó, bị đơn đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo quy định tại Điều 280, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015. Vì vậy, cần được chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả cho Ngân hàng TMCP K số tiền 377.805.667 đồng (trong đó tiền gốc là 200.000.000 đồng, tiền lãi tính đến ngày 29/11/2018 là 177.805.667 đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 30/11/2018 cho đến khi trả hết nợ cho Ngân hàng TMCP K theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại hợp đồng và theo quy định của pháp luật thể hiện tại Án lệ số 08/2016/AL được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
[4] Để bảo đảm cho khoản tiền vay, bị đơn đã ký hợp đồng thế chấp số HD2025/HĐTC ngày 30/7/2014 với Ngân hàng TMCP K, thế chấp quyền sử dụng đất số BD 927264 do UBND huyện Giá Rai cấp ngày 17/01/2011 tọa lạc tại ấp K A, xã T, thị xã G, tỉnh B, diện tích 295,3m2 tại thửa số 20 tờ bản đồ số 81 do bà Tô Ánh N đứng tên.
Hợp đồng thế chấp được chứng thực tại Phòng Công chứng số 1 tỉnh Bạc Liêu ngày 30/7/2014 và đăng ký giao dịch tiền bảo đảm ngày 30/7/2014 tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện Giá Rai (nay là thị xã Giá Rai) đúng theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xem xét, thẩm định tài sản thế chấp là diện tích đất 295,3m2 tại thửa số 20 tờ bản đồ số 81 do bà Tô Ánh N đứng tên, trên đất có tài sản gắn liền gồm căn nhà chính chiều ngang 5,50m; chiều dài 15,1m; diện tích 83,05m2; nhà phụ chiều ngang 5.50m; chiều dài 4,9m; diện tích 26,95m2 và 01 hàng rào chiều dài 5,57m. Theo các điều khoản thỏa thuận tại hợp đồng thế chấp thì bên vay là ông C bà N thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ vay tiền đối với ngân hàng. Vì vậy, tất cả tài sản này được xử lý để thu hồi nợ cho ngân hàng trong trường hợp bị đơn không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ vay cho Ngân hàng TMCP K theo quy định tại các Điều 298, 299, 317 và 325 của Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 91, 95, 96 Luật các tổ chức tín dụng.
[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai là phù hợp với quy định nên HĐXX ghi nhận.
[6] Án phí sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn là ông Phạm Văn C và bà Tô Ánh N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trả lại tiền tạm ứng án phí cho ngân hàng.
[7] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Nguyên đơn đã dự nộp 1.000.000 đồng, tổng chi phí thẩm định tại chỗ tài sản thế chấp là 580.000 đồng, số tiền còn lại 420.000 đồng, Ngân hàng đã nhận lại theo phiếu chi ngày 26/10/2018. Căn cứ điều 157, 158 bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bị đơn phải chịu, do đó ông Phạm Văn C và bà Tô Ánh N phải trả lại cho nguyên đơn số tiền 580.000 đồng.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 463, 466, 468 và 470 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP K đối với ông Phạm Văn C bà Tô Ánh N về tranh chấp Hợp đồng tín dụng.
2. Buộc ông Phạm Văn C bà Tô Ánh N có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP K số tiền 377.805.667 (ba trăm bảy mươi bảy triệu tám trăm lẻ năm ngàn sáu trăm sáu mươi bảy đồng) đồng. Trong đó, tiền nợ gốc 200.000.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày 29/11/2018 là 177.805.667 đồng.
Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Áp dụng án lệ số 08/2016/AL được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: Kể từ ngày 30/11/2018 cho đến khi thanh toán hết khoản tiền gốc và lãi trên, bị đơn còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký.
Trường hợp bị đơn không trả đủ, đúng khoản nợ trên thì Ngân hàng TMCP K có quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thửa số 20 tờ bản đồ số 81 tại ấp K A, xã T, thị xã G, tỉnh B theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 927264 do UBND huyện Giá Rai cấp ngày 17/01/2011 đứng tên bà Tô Ánh N để thu hồi nợ.
3. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Căn cứ Điều 157, 158 của Bộ luật tố tụng dân sự buộc ông Phạm Văn C và bà Tô Ánh N phải trả lại cho Ngân hàng TMCP K số tiền 580.000 (năm trăm tám mươi ngàn) đồng.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 144, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 5, 18, khoản 1 Điều 24, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị đơn Phạm Văn C, Tô Ánh N phải chịu 18.890.000 (mười tám triệu tám trăm chín mươi ngàn) đồng.
Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP K 8.850.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã dự nộp theo biên lai thu số 0012290 ngày 24/7/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Giá Rai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 51/2018/DS-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 51/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về