Bản án 508/2019/HS-PT ngày 08/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 508/2019/HS-PT NGÀY 08/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 08/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 450/2019/HSPT ngày 14/10/2019 đối với bị cáo Trần Văn T, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5305/2019/QĐXXPT-HS ngày 28/10/2019, do có kháng cáo của bị cáo T đối với bản án sơ thẩm số 102/2019/HSST ngày 06/09/2019 của Tòa án nhân dân quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trần Văn T; giới tính: nam; sinh năm 1992 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký thường trú: xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: (không nơi cư trú nhất định); quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: (không); trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: (không); con ông Trần Văn C và bà Tạ Thị D; vợ tên Trần Thị Thu E; có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2018;

Nhân thân: Năm 2017, có hành vi Trộm cắp tài sản, Cơ quan tố tụng tỉnh Bình Dương đang xem xét xử lý;

Tin án, tiền sự: (không); Bắt, tạm giam: 09/11/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Ngoài ra, còn có 2 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị.

Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị:

Các bị hại:

1.Chị Nguyễn Thị G; sinh năm 1960; nơi cư trú: 32/4 đường I, Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt;

2.Anh Nguyễn Quốc H; sinh năm 1952; nơi cư trú: 103/10 đường DVB, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt;

Người đại diện theo ủy quyền của bà G, ông H: Bà Nguyễn Thị Ngọc Hoa; là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 05/9/2019); vắng mặt

3.Công ty O, địa chỉ Lô IV-15, đường CN3, phường P, quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn T, Nguyễn Đức S, Phạm Đắc R là những người có quen biết nhau. Do không có tiền tiêu xài nên T rủ R và R đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. T, S và R đã thực hiện 2 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất:

Vào khoảng 23 giờ ngày 19/8/2018, trong lúc đang cùng nhau ở Khách sạn Văn Khang, địa chỉ số 168 đường Đào Duy Khang, Phường 9, quận Phú Nhuận, T rủ R đi trộm cắp tài sản, R đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe máy Yamaha Exciter mang biển số 59D1-98414 chở R đến khu vực phường V, Quận X. Tại đây, T tháo biển số của chiếc xe máy đã đề cập và gắn biển số giả mang ký hiệu 59X2–592.59 vào xe, rồi tiếp tục chở R đến bãi đất trống dưới gầm cầu U, phường V, Quận X. Tại đây, T lấy một bao vợt cầu lông, bên trong có công cụ phá khóa. Sau đó, T giao xe cho R điều khiển; R chở T đi qua nhiều tuyến đường. Khoảng 01 giờ 15 phút ngày 20/8/2018, khi đến gần Công ty TNHH khoa học kỹ thuật và sản xuất gốm sứ Y (địa chỉ: Lô IV-15, đường CN3, phường P, quận Q) thì T bảo R dừng xe và bảo R chạy xe đến chỗ khác đợi, khi nào trộm cắp được tài sản, T sẽ gọi điện thoại cho R để R quay lại đón T. Tiếp theo đó, T trèo qua tường rào vào trong Công ty Y, dùng tua-vít cạy cửa Phòng tổng giám đốc, vào phòng cạy phá két sắt hiệu Solid (để ở sát tường phía sau bàn làm việc). Tuy nhiên, trong két không có tài sản nên T bỏ đi ra ngoài và tiếp tục dùng tu vít cạy Phòng kế toán, vào phòng kế toán lấy trộm 01 máy vi tính xách tay hiệu Dell màu đen xám bạc (để trong ngăn bàn làm việc ở bên trái cuối phòng kế toán). Tiếp theo đó, T phát hiện trong Phòng kế toán có một phòng nhỏ nên T dùng tu vít bẻ gãy khoen khoá cửa, dùng thanh kim loại đầu dẹt nạy cửa lên và lấy hai 02 thùng giấy chèn vào bên dưới tạo khoảng hở để chui vào. T thấy trong phòng có ba 03 két sắt dựng sát tường phía cuối phòng gồm: 01 cái màu đen; 01 cái màu xanh; 01 cái màu xám. T đã dùng tu vít, thanh kim loại đầu dẹt, thanh kim loại đầu cong và xà beng để nạy cánh cửa két sắt màu đen, lấy trộm được 7.160.000đ, 120USD. Sau đó, T điện thoại cho R, bảo R vào hỗ trợ T phá 02 két sắt còn lại. Sau khi R vào, T và R phá 02 két sắt còn lại nhưng vì bên trong không có tài sản nên cả hai ra lấy xe tẩu thoát. Trên đường đi, T gắn lại biển số thật vào xe, còn biển số giả thì cất giấu dưới yên xe máy. T tiếp tục chở R quay lại cầu U để cất giấu bao đựng công cụ gây án dưới gầm cầu (hiện chưa thu giữ được). Sau đó, cả hai quay về lại Khách sạn “Văn Khang”. Tại đây, T chia cho R 3.500.000đ. Tuy nhiên, do R thiếu nợ T 1.000.000đ nên T chỉ đưa cho R 2.500.000đ và 01 tờ giấy bạc mệnh giá 10USD.

Ngày 22/8/2018, T mang chiếc tính xách tay bán cho Cửa hàng điện thoại di động “Hoàng NG” (địa chỉ: số 13 đường Phan Huy Ích, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương; do anh Huỳnh Công NG làm chủ) với giá 4.500.000đ.

Căn cứ tỷ giá ngoại tệ do Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp thì vào ngày 20/8/2018, giá giá bán 1USD là 23.235đ. Như vậy 120USD có trị giá là 2.788.200đ.

Theo kết luận định giá số 160/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 16/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì: chiếc máy tính xách tay hiệu Dell trị giá 4.500.000đ. Đối với chiếc két sắt màu đen hiệu Bauche, két sắt màu xanh hiệu Bauche, két sắt màu xám, két sắt hiệu Solid không xác định được trị giá bị hư hỏng.

Về trách nhiệm dân sự: Tại giai đoạn điều tra, bà Đoàn Thị Hoài Thanh (người đại diện theo ủy quyền của Công ty Y) yêu cầu bồi thường số tiền 7.000.000đ và 120USD, tổng trị giá là 9.700.000đ.

Vụ thứ hai:

Vào khoảng 23 giờ ngày 26/10/2018, tại khách sạn Văn Khang số 168 đường Đào Duy Khang, Phường 9, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. T rủ S đi trộm cắp tài sản, S đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter 59D1–984.14 chở S và mang theo 01 chiếc túi màu xanh (loại đựng vợt cầu lông), bên trong có găng tay, tu vít và một số thanh sắt. Khi đến đường Hồng Hà thuộc khu vực Phường 2, quận Tân Bình thì T dừng xe lại, lấy biển số giả mang ký hiệu 59X2–592.59 từ trong cốp xe gắn vào xe nhằm tránh bị phát hiện, rồi tiếp tục chở S đến khu công nghiệp Tân Bình. Khi đến bên hông Công ty Vinh Thông tại địa chỉ Lô 3-17, đường CN13, phường P, quận Q thì T dừng xe lại. T bảo S chạy xe đi chỗ khác, khi nào T trộm được tài sản thì sẽ gọi Thắng đến đón. Sau đó, T leo qua hàng rào vào Công ty Vinh Thông.

Sau đó, T đeo găng tay, rồi dùng tu vít cạy cửa Phòng giám đốc, vào phòng lấy trộm được 01 Ipad Air 2, 01 Ipad 4, 01 điện thoại di động Samsung A7 và 01 chai nước hoa. Sau đó, T dùng các thanh kim loại cạy phá chiếc két sắt để ở góc phòng, lấy trộm được 06 chiếc nhẫn bằng kim loại có đính đá màu trắng và màu đỏ, 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng đính hột màu xanh đậm, 01 đôi bông tai bằng kim loại màu vàng, 02 chuỗi hạt ngọc trai, 01 cài áo bằng kim loại có gắn đá, 02 mặt dây chuyền, 01 lắc tay bằng kim loại, 01 kiềng kim loại màu vàng, 01 dây chuyền kim loại màu vàng, 01 đồng hồ đeo tay hiệu Omega, 01 đồng hồ đeo tay hiệu Ares Gold, 200 đô la Singapore, 38 đô la 20 cent Hong Kong; một số trang sức. Sau đó, T bỏ tất cả số tài sản đã nêu vào một chiếc túi ny lon màu vàng có sẵn ở trong phòng và gọi điện thoại cho S, bảo S đến đón. T đưa bao đựng công cụ và túi ny lon đựng tài sản trộm cắp cho S giữ, rồi T điều khiển xe chở S quay lại Khách sạn Văn Khang. Trên đường đi về, T lấy biển số 59D1–984.14 gắn lại vào xe. Sau đó, T và S mang số nhẫn vàng, kiềng vàng, dây chuyền vàng, trang sức (không nhớ cụ thể loại trang sức gì) trộm cắp được bán cho Cửa hàng Vàng bạc đá quý “Kim Xuyến Nhật” (số 44 - 46 đường Nguyễn Duy Dương, Phường 9, Quận 5, do chị Nguyễn Ngọc Thảo làm chủ), Cửa hàng kinh doanh vàng “Bảo Trâm” (số 32 đường An Dương Vương, Phường 9, Quận 5, do chị Đặng Thị Hồng Nhung làm chủ), Cửa hàng vàng bạc đá quý “Hồng Kim Ngọc” (số 78 đường Nguyễn Duy Dương, Phường 9, Quận 5, do chị Lâm Nguyễn Phương Thảo làm chủ). S và T thu được tổng cộng 41.000.000đ; đổi một số tiền ngoại tệ được 1.800.000đ. T và S mang chiếc Ipad Air 2 bán cho Cửa hàng điện thoại Đăng Quang (số 45 đường Hùng Vương, Phường K, Quận 5, do anh Bùi Đăng Quang làm chủ) với giá 1.800.000đ; mang chiếc điện thoại Samsung A7 bán cho Cửa hàng di động (số 7A đường Hùng Vương, Phường K, Quận 5, do anh Lê Ngọc Phương) với giá 2.500.000đ. T và S mang số tài sản còn lại cất giữ ở Khách sạn Văn Khang. T chia cho S 5.000.000đ, T cất giữ 42.500.000đ; sau đó, bị Cơ quan công an thu giữ.

Qua truy xét, Cơ quan điều tra đã bắt giữ T, S và R. Tại Cơ quan điều tra, T, S và R khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Theo lời trình bày của bà Nguyễn Thị G và ông Nguyễn Quốc H (chồng bà G) thì bà G và ông S còn bị mất một số tài sản khác, gồm: 20.000 đô la Mỹ, 20 lượng vàng SJC, 02 nhẫn kim cương trị giá 500.000.000đ, 01 đôi bông tai bằng vàng trắng, 02 nhẫn bằng vàng trắng có gắn hạt trai và đá ruby, 01 vòng đeo tay bằng đá cẩm thạch màu xanh rêu trị giá 2000 đô la Mỹ. Tuy nhiên, T, S và R không thừa nhận lấy trộm những tài sản mà bà G, ông S trình bày; bà G và ông S thì không cung cấp được các tài liệu chứng cứ để chứng minh nguồn gốc tài sản.

Theo kết luận định giá số 159/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 16/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự: két sắt màu xám hiệu Bauche không xác định được giá trị bị hư hỏng; chiếc Ipad Air 2 trị giá 1.800.000đ, chiếc Ipad 4 trị giá 2.500.000đ, chiếc điện thoại di động Samsung A7 trị giá 2.000.000đ; không xác định trị giá 02 chuỗi hạt ngọc trai, 01 lắc tay bằng kim loại màu vàng, 01 nhẫn kim loại màu vàng có gắn đá xanh, 01 nhẫn kim loại màu trắng đã tháo hột, 01 nhẫn kim loại màu trắng có gắn chín viên đá màu đỏ, 01 nhẫn kim loại màu trắng có gắn đá chính và đá phụ màu trắng, 01 nhẫn màu trắng có gắn đá màu trắng, 01 cài áo bằng kim loại màu trắng có gắn đá màu trắng, 01 mặt dây chuyền kim loại màu trắng có gắn đá màu trắng, đá chính màu xanh, 01mặt dây chuyền màu trắng có gắn đá màu xanh.

Theo giám định của Công ty vàng bạc đá quý Phú Nhuận thì: chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng đính hột màu xanh là hợp kim có hàm lượng vàng là 69,24%, khối lượng là 1,903 chỉ x 2.429.000 đồng (giá vàng ngày 27/10/2018) = 4.622.387 (bốn triệu sáu trăm hai mươi hai ngàn ba trăm tám mươi bảy) đồng.

Theo niêm yết giá ngoại tệ của Ngân hàng Vietcombank vào ngày 26/10/2018:

-200 đô la Singapore tương đương 3.344.400đ;

-38 đô la 20 cen HongKong tương đương 112.000đ.

Tại bản cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 04/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Trần Văn T, Phạm Đắc S và Nguyễn Đức R về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự năm 2015);

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 102/2019/HSST ngày 06/9/2019 của Tòa án nhân dân quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn T, Phạm Đắc S, Nguyễn Đức R phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, Xử phạt bị cáo Trần Văn T 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính kể từ ngày 09/11/2018;

Xử phạt Phạm Đắc S và Nguyễn Đức R mỗi người 10 tháng tù.

Ngoài ra, bản án còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên án phí, quyền kháng cáo của bị cáo và các đương sự.

Ngày 06/9/2019, bị cáo T có đơn kháng cáo với nội dung: Cha mẹ bị cáo già yếu, bị cáo có con nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Do vậy, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là đúng pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng. Kháng cáo của bị cáo là không có căn cứ. Đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác, có căn cứ để xác định rằng:

Bị cáo đã có hành vi rủ rê Nguyễn Đức R và Phạm Đắc S trộm cắp tài sản của người khác.

Vào khoảng 23 giờ ngày 20/8/2018, bị cáo đã cùng Phạm Đắc S trộm cắp của Công ty TNHH Khoa học Kỹ thuật và Sản xuất gốm sứ Y (địa chỉ: Lô IV- 15, đường CN3, phường P, quận Q) một số tài sản gồm: 7.160.000đ, 01 máy tính hiệu Dell trị giá 4.500.000đ, 120 đô la tương đương 2.788.200đ. Tổng trị giá tài sản mà bị cáo và R chiếm đoạt của Công ty TNHH Khoa học Kỹ thuật và Sản xuất gốm sứ Y là 14.448.200đ.

Vào khoảng 23 giờ ngày 26/10/2018, bị cáo cùng Nguyễn Đức R trộm cắp của Nguyễn Thị G và ông Nguyễn Quốc H (chồng bà G) một số tài sản gồm: 01 Ipad Air 2 có giá trị 1.800.000đ, 01 Ipad 4 có trị giá 2.500.000đ, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A7 có trị giá 2.000.000đ, 200 đô la Singapore (tương đương 3.344.400đ), 38 đô la 20 cent HongKong (tương đương 112.000đ), 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng đính hột màu xanh đậm có trị giá 4.622.387đ. Tổng trị giá tài sản mà bị cáo và S chiếm đoạt của bà G và ông H là 14.378.987đ.

Theo lời trình bày của bà Nguyễn Thị G và ông Nguyễn Quốc H (chồng bà G) thì bà G và ông S còn bị mất một số tài sản khác, gồm: 20.000 đô la Mỹ, 20 lượng vàng SJC, 02 nhẫn kim cương trị giá 500.000.000đ, 01 đôi bông tai bằng vàng trắng, 02 nhẫn bằng vàng trắng có gắn hạt trai và đá ruby, 01 vòng đeo tay bằng đá cẩm thạch màu xanh rêu trị giá 2.000 đô la Mỹ. Tuy nhiên, T, S và R không thừa nhận lấy trộm những tài sản mà bà G, ông S trình bày; bà G và ông NG thì không cung cấp được các tài liệu chứng cứ để chứng minh nguồn gốc tài sản. Bị cáo S khai trình bán đồ trang sức trộm cắp được cho Cửa hàng Vàng bạc đá quý “Kim Xuyến Nhật, Cửa hàng kinh doanh vàng “Bảo Trâm, Cửa hàng vàng bạc đá quý “Hồng Kim Ngọc”; bán Ipad cho Cửa hàng điện thoại Đăng Quang. Tuy nhiên, chủ các cửa hàng vừa nêu không thừa nhận việc có mua tài sản do S bán. Mặt khác, S khai không nhớ đã bán số trang sức nào, giá bán thế nào. Do vậy, không có căn cứ vững chắc để quy buộc bị cáo và S đã trộm cắp số tài sản mà bà G và ông H đã khai trình.

Đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ căn cứ kết luận bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án bị cáo theo tội danh, điều luật như đã vừa nêu là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2].Về kháng cáo của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo có mức độ nguy hiểm cao, có dự mưu và chuẩn bị công cụ phạm tội; bị cáo là người khởi xướng, rủ rê, lôi kéo S và R vào việc phạm tội.

Bị cáo phạm tội 2 lần nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 để tăng nặng trách nhiệm hình sự là đúng pháp luật.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ.

Bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có nơi cư trú nhất định. Do vậy, việc bị cáo cho rằng bị cáo là lao động chính trong gia đình là không có căn cứ.

Mức án 2 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo là tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[3].Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

1.Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn T, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 102/2019/HSST ngày 06/9/2019 của Tòa án nhân dân quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, Xử phạt bị cáo Trần Văn T 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 09/11/2018.

2.Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 508/2019/HS-PT ngày 08/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:508/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về