Bản án 508/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình – ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 508/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH – LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 472/ 2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2019, về tranh chấp “Hôn nhân gia đình – ly hôn, nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 216/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 10 năm 2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Bảo Tr, sinh năm 1989.

Đa chỉ: Tổ 7, ấp Phú Mỹ Th, xã Phú Th, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1990.

Đa chỉ: ấp Phú Đ B, xã Phú Th, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

(Anh Tr có mặt, chị L vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 09/9/2019, bản tự khai anh Trần bảo Tr trình bày: Sau khi tìm hiểu và được sự đồng ý của cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới cho anh và chị Nguyễn Thị Mỹ L vào năm 2012, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Phú Thọ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 74/2012, quyển số 01/2012, ngày 28/8/2012. Thời gian đầu vợ chồng cung sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cải vả nhau do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chính thức ly thân từ tháng 10 năm 2018 đến nay, không hàn gắn tình cảm được, từ đó không ai quan tâm đến ai, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đich hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thị Mỹ L.

Về con chung: có 02 con chung tên Trần Bảo Nam, sinh ngày 18/7/2012 và Trần Nhã Cát Tiên, sinh ngày 11/9/2019, đang sống chung với anh Tr, anh Tr yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu chị L cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra không có ý kiến nào khác.

- Bị đơn: chị Nguyễn Thị Mỹ L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, không có lời trình bày.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên chị Mỹ L vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án là chấp hành pháp luật chưa nghiêm.

- Về nội dung: Hôn nhân của anh Tr, chị L được xác lập trên cơ sở tự tìm hiểu, tự nguyện, cha mẹ hai bên đều đồng ý có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ; quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, từ khi ly thân đến nay không hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh Tr yêu cầu ly hôn và nuôi con chung là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề xuất nội dung giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp: anh Tr khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị L và nuôi con chung nên xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: chị Nguyễn Thị Mỹ L là bị đơn có nơi cư trú tại ấp Phú Đức B, xã Phú Thạnh, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp 2 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

Chị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Anh Tr yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị L. Xét chứng cứ có trong hồ sơ cùng kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa thể hiện, hôn nhân của anh chị được xác lập năm 2012 trên cơ sở tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc, phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và từ khi ly thân đến nay cả hai không hàn gắn, từ đó tình cảm vợ chồng phai nhạt, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, điều này phù hợp lời trình bày của bà Võ Thị Kim Loan (mẹ ruột của chị L) nên anh Tr yêu cầu ly hôn là có căn cứ được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Về nuôi con chung: anh, chị có 02 con chung tên Trần Bảo N, sinh ngày 18/7/2012 và Trần Nhã Cát T, sinh ngày 11/9/2019 đang sống với anh Tr và yêu cầu được tiếp tục nuôi đến khi con thành niên hoặc tự lập được, không yêu cầu chị L cấp dưỡng cho con. Xét, từ khi ly thân đến nay cháu Nam, cháu Tiên do anh Tr trực tiếp chăm sóc, giáo dục, đảm bảo phát triển bình thường về thể chất, tinh thần, chị L không phản đối, căn cứ quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, cần giao cháu N, cháu T cho anh Tr tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con đến thành niên hoặc tự lập được; chị L không phải cấp dưỡng cho con; anh Tr phải tạo mọi điều kiện thuận lợi khi chị L đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở. Trường hợp, người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con; mặt khác, nếu có căn cứ cho rằng, anh Tr không còn đảm bảo các điều kiện nuôi dạy con hoặc có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: không có Ghi nhận lời trình bày đương sự không có nợ chung, nhưng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì anh Tr, chị L phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Ngoài ra, các bên không tranh chấp về vấn đề gì khác nên không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Anh Trần Bảo Tr phải chịu án phí theo qui định pháp luật. Chị Nguyễn Thị Mỹ L không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 26; khoản 5, khoản 6 Điều 27 và khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Về hôn nhân: Anh Trần Bảo Tr được ly hôn với chị Nguyễn Thị Mỹ L.

Giấy chứng nhận kết hôn số 74/2012, quyển số 01/2012, ngày 28/8/2012 của Ủy ban nhân dân xã Phú Thọ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang cấp cho anh Trần Bảo Tr và chị Nguyễn Thị Mỹ L không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Anh Trần Bảo Tr được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng 02 con chung tên Trần Bảo N, sinh ngày 18/7/2012 và Trần Nhã Cát T, sinh ngày 11/9/2019 đến thành niên hoặc tự lập được; chị Nguyễn Thị Mỹ L không phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: không có.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Trần Bảo Tr phải chịu án phí hôn nhân, gia đình là 300.000 đồng, được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006172 ngày 20/9/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh An Giang (đã nộp đủ). Chị Nguyễn Thị Mỹ L không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 508/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình – ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:508/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về