Bản án 503/2017/HS-PT ngày 25/09/2017 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 503/2017/HS-PT NGÀY 25/09/2017 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong các ngày 22 và 25 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 255/2017/TL - HSPT ngày 25 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo Phùng Thanh T do có kháng cáo của ông Đặng Minh L là người đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

- Bị cáo kháng cáo:

Bị cáo: Phùng Thanh T (Tý), sinh năm: 1990; Nơi đăng ký NKTT: Ấp 2, xã P, huyện G, tỉnh L; Trình độ học vấn:  3/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông Phùng Văn N, sinh năm: 1963 và bà Châu Thị U, sinh năm: 1962; Anh, chị, em ruột: Có 4 người, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 1999; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/11/2016 (có mặt).

- Người bị hại: Ông Đặng Minh L, sinh năm: 1988 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp cho người bị hại Đặng Minh L: Ông Đặng Văn B, sinh năm: 1969 và bà Lê Ngọc N, sinh năm: 1970 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp 2, xã P, huyện G, tỉnh L

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Ông Đặng Văn B: Luật sư Trần Văn P - thuộc Đoàn luật sư tỉnh V (có mặt).

- Người kháng cáo: Ông Đặng Văn B là đại diện hợp pháp của người bị hại Đặng Minh L.

(Trong vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An và bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Long An thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào chiều ngày 11/11/2016 tại nhà anh Phùng Minh H và chị Nguyễn Hoàng A (H) có tổ chức tiệc cùng với sự tham gia của Trần Nhựt T, Trương Minh G, Hồ Hữu T, Trần Thị Thu N, Phùng Thanh T. Vì bận việc chở chị Lê Ngọc T đi Thành phố Hồ Chí Minh nên T về trước.

Khoảng 22 giờ, Lê Tấn D khi về nhà, nghe nhà của anh H bên cạnh tổ chức tiệc, nói chuyện, ca hát ồn ào, nên bực tức, nảy sinh ý định khi những người này ra về sẽ chặn đường đánh cho bõ tức.

Về phần T khi về nhà chuẩn bị áo khoác, mũ bảo hiểm và 01 con dao bấm bằng kim loại mang theo để phòng thân lúc đi đêm. T đi bộ ra Tỉnh lộ 826C, ngang nhà anh H cũng vừa lúc mãn tiệc nên T đi nhờ xe của anh Trương Minh G. Do anh G đã có uống rượu và chạy xe không quen nên T điều khiển chở anh G chạy trước; chạy sau có chị Nguyễn Hoàng A chở anh Trần Nhựt T, anh Hồ Hữu T chở chị Trần Thị Thu N. Cả nhóm chưa ra đến đường lớn thì bị Lê Tấn D đợi sẵn, dùng cây tre có đường kính 03cm, dài 80cm đánh trúng chân T 03 cái, đánh trúng vùng mặt anh Tuấn 01 cái và đập nứt bửng xe của chị A, được anh Nguyễn Minh H can ngăn, giật được cây ném xuống ruộng ven đường. Cả nhóm chạy ra được Tỉnh lộ 826C thì anh D tiếp tục đuổi theo, dùng đá ném bể bửng xe của anh Thảo và gây gổ với T. Lúc này anh Đặng Minh L, nhà gần đó, đi ra nói với T: “chuyện ai làm gì thì làm, thằng D nó khùng, thôi về đi mai nói chuyện với nó”. T nói: “nó khùng muốn làm gì thì làm hả, nó đánh trúng chân tao nè”. Nghe vậy, Đặng Minh L nói với T: “Mày làm gì lớn tiếng vậy? Tao đánh chết mẹ mày bây giờ”. T nói lại: “Mày làm gì thì làm không được động tới mẹ tao”. Bất ngờ Đặng Minh L xông tới đánh T, chị A đứng cạnh đó can ngăn, nắm vai Đặng Minh L kéo lại nhưng L vẫn xông tới đánh trúng vào mặt T. Khi T quay lưng bỏ chạy, L nhặt cục đá trên đường ném trúng vào lưng của T. Lúc này T quay lại lấy con dao trong túi quần, bật lưỡi dao ra, L thấy vậy lùi lại khoảng 5-6 bước thì bị té nằm ngửa trên đường. T bước đến khom người, tay phải cầm dao đâm trúng vào vùng ngực trái của L 01 cái, rút dao rồi bỏ chạy khoảng 200m, nhảy xuống con rạch. Do áo khoác thấm nước không bơi được nên T ném con dao xuống rạch, cởi bỏ áo khoác, bơi một đoạn khoảng 100m về hướng chợ Núi, leo lên bờ chỗ gò đất cao trốn. Đến 10 giờ ngày 13/11/2016 T đi ra Tỉnh lộ 826C nghe tin anh L đã tử vong nên T đến Công an xã P đầu thú.

Bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 140/TT ngày 29/11/2016 của Trung tâm Pháp y tỉnh Long An xác định như sau:

1. Khám ngoài:

- Đầu, mặt: hai mắt nhắm, đồng tử đều hai bên, hai lỗ tai, mũi, miệng không tiết dịch;

- Cổ, gáy: không phát hiện thương tích;

- Ngực: ngực trái có 01 vết thương thấu ngực sâu khoảng 10cm hình khe, kích thước 02cm x 0,8cm bờ mép sắc gọn, hai góc vết thương nhọn, vị trí cách đường giữa xương ức 03cm, đầu vú trái 06,5cm, cách gót chân trái 01,2m;

- Bụng: không phát hiện thương tích;

Tứ chi: sây sát rải rác mặt ngoài chân trái.

2. Khám trong:

- Đầu: Không bầm tụ máu dưới da và trong cơ, xương hộp sọ không dấu nứt, vỡ. Não phù, các mạch máu não sung huyết, xuất huyết màng não;

- Ngực, bụng: bầm tụ máu tương ứng dưới da và trong cơ dưới vết thương thấu ngực trái. Cắt đứt ngang sụn sườn số 5 và khe liên sườn 5, 6 bên trái. Cắt đứt màng ngoài tim dài 02cm, cắt đứt thủng Thành tâm thất phải, cắt đứt cơ hoành, cắt đứt mặt trước gan sâu 04cm. Khoang màng tim căng ứ nhiều máu cục, khoang ngực bụng ứ nhiều máu cục lẫn máu không đông khoảng 3 lít máu.

Kết luận: Tử vong do vết thương thấu ngực thủng tim, gan gây choáng mất máu cấp.

Ông Đặng Văn B và bà Lê Ngọc N là người đại diện hợp pháp cho người bị hại Đặng Minh L trình bày: Ông, bà là cha mẹ ruột của anh Đặng Minh L, sau khi anh L chết ông, bà đã chi tổng cộng gồm tiền thuê xe và mai táng là 97.600.000 đồng, gia đình bị cáo T đã bồi thường được 10.000.000đ. Nay ông, bà yêu cầu bị cáo bồi thường tiếp số tiền 87.600.000đồng. Về trách nhiệm hình sự ông bà yêu cầu xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An  đã Tuyên bố: Bị cáo Phùng Thanh T phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng khoản 2 Điều 93; điểm b, đ và p Khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33; Điều 45 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Phùng Thanh T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 13/11/2016. Tiếp tục tạm giam bị cáo Phùng Thanh T để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

2. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 2, Điều 42 Bộ luật Hình sự; Các Điều 584, 585, 591 Bộ luật dân sự 2015;

Công nhận sự thỏa thuận giữa ông B, bà N với bị cáo Phùng Thanh T. Buộc bị cáo T phải bồi thường cho ông B, bà N số tiền 87.600.000đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về việc  xử lý vật chứng, buộc các bị cáo nộp án phí, tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Sau khi xử sơ thẩm, ngày 25/4/2017, Ông Đặng Văn B là đại diện hợp pháp của người bị hại Đặng Minh L kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo. Lý do ông cho rằng mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo là nhẹ, chưa tương xứng với hành vi do bị cáo gây ra.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phùng Thanh T khai nhận hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội và gây tổn thương cho gia đình bị hại. Vì vậy bị cáo xin lỗi gia đình bị hại và không có ý kiến gì về việc tăng hình phạt của đại diện gia đình bị hại. Ông Đặng Văn B là đại diện hợp pháp của người bị hại Đặng Minh L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Tòa phúc thẩm xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo T. Vì mức án sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là quá nhẹ, về tội danh cũng như điều khoản mà Tòa sơ thẩm đã xử là thỏa đáng, ông không kháng cáo về phần này.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm xét xử vụ án cho rằng, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phùng Thanh T về tội “Giết người” theo Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội. Xét hành vi của do bị cáo gây ra cho người bị hại là nghiêm trọng, mức án mà cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo 06 năm tù theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là quá nhẹ. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo cũng bắt nguồn từ một phần lỗi của người bị hại và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay đại diện hợp pháp của người bị hại ông B không kháng cáo về nội dung khoản truy tố xét xử đối với bị cáo, mà chỉ kháng cáo yêu cầu xử tăng hình phạt đối với bị cáo. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là thỏa đáng.

Từ những phân tích trên vị Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của ông B, sửa án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Phùng Thanh T lên mức từ 12-13 năm tù.

Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Ông Đặng Văn B trình bày nội dung đồng ý với kết luận của vị Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm về việc tăng hình phạt đối với bị cáo lên mức 12-13 năm tù. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án có thể hiện lời khai của bị cáo và nhân chứng có nhiều điểm chưa khớp để có thể kết luận bị cáo có bị nạn nhân ném đá hay không. Hơn nữa, hành vi của bị cáo là hung hăng có tính côn đồ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm về vấn đề này.

Ông B không bổ sung ý kiến tranh luận và đồng ý với quan điểm mà vị Đại diện Viện Kiểm sát vừa nêu.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Vào khoảng 22 giờ  ngày 11/11/2016 tại khu vực Tỉnh lộ 826C thuộc ấp 2, xã P, huyện G, tỉnh L bị cáo Phùng Thanh T và một số bạn của T bị anh D vô cớ chặn đường đánh, anh L nhà gần đó ra can ngăn và có lời qua tiếng lại với bị cáo T, anh L dùng tay đánh vào mặt bị cáo, bị cáo quay lưng bỏ chạy, thì anh L nhặt cục đá trên đường ném trúng vào lưng làm cho bị cáo bị kích động, lấy con dao mang theo trong người đâm trúng vào vùng ngực của anh L 01 cái, khiến anh L tử vong tại Bệnh viện Đa khoa huyện G, tỉnh L. Tại Kết luận giám định pháp y về tử thi số 140/TT ngày 29/11/2016 của Trung tâm Pháp y tỉnh Long An kết luận tử vong do vết thương thấu ngực thủng tim, gan gây choáng mất máu cấp.

Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Phùng Thanh T  phạm tội “Giết người” theo Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội.

Xét kháng cáo của Ông Đặng Văn B là đại diện hợp pháp của người bị hại Đặng Minh L kháng cáo yêu cầu Tòa phúc thẩm xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo. Lý do ông cho rằng mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo là nhẹ, chưa tương xứng với hành vi do bị cáo gây ra. Ngoài ra, ông B đề nghị làm rõ việc con ông có ném đá vào chân bị cáo hay không. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận định: Hành vi của bị cáo đặc biệt nguy hiểm, xâm hại đến khách thể quan trọng nhất được pháp luật hình sự bảo vệ đó là tính mạng của con người; xuất phát từ việc Lê Tấn D chặn đánh bị cáo vô cớ, anh L ra can ngăn và có lời qua tiếng lại với bị cáo. Tiếp theo anh L đánh vào mặt bị cáo nên bị cáo lấy dao tấn công lại anh L, anh L bỏ chạy và bị ngã xuống đường nhưng bị cáo không dừng lại mà tiếp tục cầm dao nhọn đâm một nhát vào ngực anh L dẫn đến anh L chết khi đưa đi cấp cứu. Hành vi đó, cần phải áp dụng  mức án nghiêm khắc để trừng trị bị cáo, buộc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng phòng ngừa chung nhất là trong tình hình hiện nay, việc sử dụng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn trong xã hội ngày càng gia tăng, đòi hỏi pháp luật phải nghiêm trị. Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 xử bị cáo mức hình phạt 6 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt) đối với bị cáo là chưa nghiêm khắc và chưa tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra cho người bị hại. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo Ông Đặng Văn B là đại diện hợp pháp của người bị hại Đặng Minh L và sửa bản án sơ thẩm theo hướng không áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 tăng hình phạt đối với bị cáo Phùng Thanh T. Đối với việc luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét có hay không việc nạn nhân ném đá vào chân của bị cáo thì Hội đồng xét xử nhận định như sau: Sự việc này chỉ có nạn nhân và bị cáo là người nắm rõ sự việc nhưng nạn nhân đã chết nên không thể đối chất để làm rõ. Tuy nhiên, cho dù nạn nhân không ném đá vào chân bị cáo thì nguyên nhân dẫn đến hành vi của bị cáo T phạm tội cũng có một phần lỗi của nạn nhân là chửi thề và nhảy vào tát bị cáo. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo T theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ đung pháp luật không sai.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

Áp dụng điểm b Khoản 2, Khoản 3 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận kháng cáo của ông Đặng Văn B là đại diện hợp pháp của người bị hại Đặng Minh L. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 13/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Tuyên bố: Bị cáo Phùng Thanh T phạm tội “Giết người”.

Áp dụng khoản 2 Điều 93; điểm b, đ và p Khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33; Điều 45 Bộ luật Hình sự năm 1999;

Xử phạt: Bị cáo Phùng Thanh T 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 13/11/2016. Tiếp tục tạm giam bị cáo Phùng Thanh T 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 503/2017/HS-PT ngày 25/09/2017 về tội giết người

Số hiệu:503/2017/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về