Bản án 502/2019/HS-PT ngày 30/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 502/2019/HS-PT NGÀY 30/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 235/2019/TLPT-HS ngày 7 tháng 5 năm 2019, đối với bị cáo Phạm Thị Thu Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo Phạm Thị Thu Th đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 94/2019/HS-ST ngày 28/03/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 660/2019/QĐPT-HS ngày 24 tháng 7 năm 2019.

Bị cáo có kháng cáo: Phạm Thị Thu Th (tên gọi khác: Không); Sinh ngày 27/4/1981, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 2.04 chung cư 1225/94/16 PTH, Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Phòng PL2, 23.04 Tòa nhà LP, số 50 PVK, Phường 2, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Phạm Th1, con bà Nguyễn Thị H; Bị cáo có chồng là Phạm Tấn H1 (đã ly hôn) và 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2012); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam ngày 27/11/2017. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo:

1. Luật sư Cao Ngọc S, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Luật sư Vũ Quang Đ, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

(Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Lý Lâm S1 và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Đức Th2 nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị hoặc liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 02 giờ 00 phút, ngày 26/11/2017, Phạm Thị Thu Th và Lý Lâm S1 đến quán cà phê ở góc đường HTLO – NTT, Phường 13, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh để bán ma túy cho bạn của Th tên H (không rõ lai lịch). Khi đi Th có rủ Nguyễn Đức Th2 (bạn trai của Th) đi theo. Tại đây, Th và S1 xảy ra xô xát với 02 thanh niên không rõ lai lịch) nên bỏ chạy vào Công an Phường 13, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh để trình báo. Lúc này, chính 02 thanh niên gây gổ và đánh Th, S1 ở bên ngoài la lớn rằng Th và S1 mua bán ma túy giả và đang giữ ma túy trong túi xách. Do đó, Tổ Cảnh sát 113 phối hợp cùng Công an Phường 13, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra và lập biên bản phạm tội quả tang đối với S1 và S1 khai đã cùng với Th đi bán ma túy ngày 26/11/2017.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của S1 và Th tại phòng LP2, 23.04 tòa nhà LP số 50 PVK, Phường 2, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã thu giữ của Th tại nhiều nơi trong nhà gồm ma túy, 110 viên nén và 61 lọ thủy tinh có thể tích 3.050,0ml, bên trong chứa chất lỏng. Do đó, vào ngày 27/11/2017, Cơ quan Điều tra tiến hành bắt khẩn cấp đối với Th để làm rõ hành vi phạm tội.

Tại Kết luận giá m định số 39/KLGĐ-H ngày 19/12/2017 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Chất bột màu xanh trong 05 gói nylon (các gói 2, 3, 4, 5, 6) được niêm phong có chữ ký tên Phạm Thị Thu Th và hình dấu Công an Phường 2, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4.908,75g, loại Ketmine. Tại Kết luận giám định số 35/KLGĐ-H ngày 19/12/2017 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Lý Lâm S1 và hình dấu Công an Phường 13, Quận 5 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng: 2,9753g, loại MDMA, 0,1778g, loại Methylphenidate, 311,38g, loai ketamine.

Quá trình điều tra, S1 khai: S1 và Th là bạn quen biết được 01 năm và được Th cho ở nhờ tại phòng thuê số LP2, 23.04 tòa nhà LP số 50 PVK, Phường 2, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh được 10 ngày đến khi bị bắt. Lúc 02 giờ ngày 26/11/2017, S1 đang ở nhà thì Th hỏi là còn thuốc lắc không bán lại cho bạn của Th một ít để sử dụng. S1 đồng ý và lấy số ma túy của H (không rõ lai lịch) gửi S1 trước đó mang theo đến quán cà phê tại góc đường HTLO – NNT, Phường 13, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi đi Th có rủ bạn của Th là Nguyễn Đức Th2 theo chơi, Th2 không biết việc bán ma túy của S1 và Th. Khi đến quán cà phê, có 02 thanh niên đến trao đổi việc mua bán ma túy với Th, sau đó gây gổ và đánh nhau. S1 và Nguyễn Đức Th2 có can ngăn rồi chạy đến Công an Phường 13, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh để tránh sự truy đuổi của 02 thanh niên đó.

Khi Công an Phường đang làm việc với S1 và Th thì bên ngoài có tiếng la lớn là S1 và Th bán ma túy nên Công an kiểm tra, phát hiện trong túi xách của S1 có chứa ma túy nên lập biên bản phạm tội quả tang như đã nêu trên. Riêng số ma túy thu giữ tại nơi Th ở thì S1 không biết và cũng không tham gia mua bán số ma túy trên.

Lời khai của Th phù hợp với lời khai của S1. Ngoài ra, Th khai thêm số ma túy có khối lượng 4.908,75 gam, loại Ketamine thu giữ tại nơi ở của Th là do Th tự sản xuất ra ma túy (thuốc lắc) bằng cách ngâm thuốc tây hiệu Panadol với các chai nước loại ketamine ngâm với thuốc lợi tiểu ra thành chất bột để bán lại với giá 2 triệu/đồng/1kg nhưng chưa bán được thì bị bắt giữ. Toàn bộ ma túy thu giữ tại nơi ở của Th thì S1 hoàn toàn không biết và việc Th sản xuất ra ma túy thì S1 cũng không tham gia. Thời gian sau, Th liên tục thay đổi lời khai và không thừa nhận có hành vi bán ma túy cùng S1, chỉ xác nhận có chia lại ma túy cho người nghiện (bạn của Th) và số ma túy có khối lượng 4.908,75g, loại ketamine thu giữ tại nơi ở của Th là của S1.

Nguyễn Đức Th2 khai nhận: Th2 là bạn trai của Th từ Hải Phòng vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 26/11/2018 đi chơi chung với Th và S1 rồi xảy ra sự việc như trên nhưng Nguyễn Đức Th2 không biết việc Th và S1 mua bán ma túy. Lời khai của Nguyễn Đức Th2 phù hợp với lời khai của S1 và Th. Do đó, không có cơ sở xác định Nguyễn Đức Th có liên quan đến việc mua bán ma túy của S1 và Th trong vụ án này.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 94/2019/HS-ST ngày 28 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Thị Thu Th và Lý Lâm S1 phạm tội “Mua bán trái pháp chất ma túy”.

Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194, Điều 35 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Thu Th tử hình. Tiếp tục giam giữ bị cáo để bảo đảm thi hành án.

Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lý Lâm S1 20 (hai mươi) năm tù. Thời gian tù tính từ ngày 26/11/2017.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 28/3/2019, bị cáo Phạm Thị Thu Th kháng cáo cho rằng mức án của bản án sơ thẩm là quá nặng, bị cáo không có hành vi mua bán ma túy.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị Thu Th giữ nguyên kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt và trình bày: Xác định số ma túy có khối lượng 4.908,75g được thu giữ tại nơi bị cáo thuê tại PL2, 23.04 Tòa nhà LP, số 50 PVK, Phường 2, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo đã mua các chất, gồm: ketamine, cồn và thuốc paradol tại tiệm thuốc tây để sản xuất thuốc lắc và sử dụng cá nhân. Tại cơ quan điều tra, bị cáo có khai: Sản xuất ma túy để bán với giá 2 triệu đồng/kg nhưng chưa bán được thì bị bắt. Tuy nhiên, nội dung khai trên là không đúng vì bị cáo bị ảo giác do sử dụng ma túy. Mục đích bị cáo pha trộn thuốc lắc để chơi, không phải bán. Việc mua các chất và pha trộn ma túy thì bị cáo thực hiện một mình, không có ai tham gia. Ngày bị bắt thì Nguyễn Đức Th2 là bạn của bị cáo mới từ Hải Phòng vào chơi nên không biết sự việc.

Đi diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến: Tại phiên tòa, bị cáo Th đã thừa nhận hành vi mua ma túy và các chất khác để pha trộn ma túy (thuốc lắc). Số ma túy thu giữ tại nơi ở của Th, được giám định có khối lượng 4.908,75g, loại ketamine, thể rắn. Mặc dù lời khai tại phiên tòa, bị cáo không thừa nhận việc pha trộn ma túy để bán nhưng tại cơ quan điều tra, có sự chứng kiến của Luật sư của bị cáo thì Th đã khai mục đích pha trộn ma túy để bán với giá 2 triệu đồng/kg nhưng chưa bán được thì bị bắt. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ. Do số lượng mua bán ma túy đặc biệt lớn nên hình phạt tử hình đối với bị cáo là phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là chưa có căn cứ. Vì các lý do sau: Chưa chứng minh được bị cáo mua ma túy của ai? Số lượng và giá bao nhiêu tiền?; Chưa chứng minh được bị cáo bán ma túy cho ai? Số lượng bán và giá bao nhiêu? Thu lợi bao nhiêu tiền?; Số lượng ma túy 4.908,75g thu giữ tại nơi ở của bị cáo nhưng không xác định được bị cáo tàng trữ để sử dụng bao nhiêu và để bán bao nhiêu? Kết quả điều tra bổ sung của Cơ quan điều tra chưa xác định được mục đích bán ma túy của bị cáo. Trong khi đó, tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là tội ghép nên cần xác định bị cáo chỉ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, không có hành vi mua bán. Về các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo mồ côi mẹ từ nhỏ, hiện cha già yếu; Hoàn cảnh bị cáo rất khó khăn, chồng đã ly hôn, bị cáo trực tiếp nuôi 2 con nhỏ; Bị cáo có ông nội là Liệt sỹ; Chưa có tiền án tiền sự; không có tình tiết tăng nặng nên đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bị cáo Phạm Thị Thu Th kháng cáo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự nên vụ án được xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Th thừa nhận số ma túy có khối lượng 4.908,75g, loại Ketamine được thu giữ tại nơi cư trú của bị cáo tại PL2, 23.04 Tòa nhà LP, số 50 PVK, Phường 2, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo xác định đã mua ma túy và các chất khác là cồn và thuốc paradol để pha trộn ma túy (thuốc lắc). Mặc dù, bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội mua bán ma túy mà cho rằng việc pha trộn ketamine, thuốc paradol và cồn trong lúc bị cáo đã sử dụng ma túy nên bị bị ảo giác, không biết mục đích pha chế để làm gì. Tuy nhiên, theo lời khai ban đầu thì bị cáo mua Ketamine, thuốc paradol và cồn để pha trộn ma túy (thuốc lắc) với mục đích bán với giá 2 triệu đồng/kg nhưng chưa bán được thì bị bắt.

[3] Tại Kết luận giám định số 39/KLGĐ-H ngày 19/12/2017 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định khối lượng ma túy thu giữ tại nơi cư trú của bị cáo Th là 4.908,75g, loại Ketamine, thể rắn. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo Th đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm e, khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự là có căn cứ

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Th, thấy rằng: Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ, khách quan các tình tiết của vụ án, đồng thời áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ. Tuy nhiên, do bị cáo mua bán số lượng ma túy rất lớn, gây hậu quả cho xã hội đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo tử hình là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Tại phiên tòa, bị cáo cũng không cung cấp được các tình tiết giảm nhẹ đặc biệt làm cơ sở giảm nhẹ hình phạt nên Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, không chấp nhận ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo Th phải chịu án phí phúc thẩm. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thị Thu Th.

2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 94/2019/HS-ST ngày 28 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Tuyên bố các bị cáo Phạm Thị Thu Th phạm tội “Mua bán trái pháp chất ma túy”.

- Áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194, Điều 35 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Phạm Thị Thu Th tử hình. Tiếp tục giam giữ bị cáo để bảo đảm thi hành án.

4. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Thị Thu Th phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

5. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, bị cáo Phạm Thị Thu Th có quyền làm đơn xin Chủ tịch nước Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm án tử hình.

7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 30 tháng 8 năm 2019)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 502/2019/HS-PT ngày 30/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:502/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về