Bản án 50/2021/HS-ST ngày 31/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 50/2021/HS-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Hòa Lạc, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Lương Văn T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 13 tháng 8 năm 1995 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn A, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Hùng C, sinh năm 1962 và bà Hoàng Thị M, sinh năm 1961; vợ, con: Chưa có; tiền án: Tại bản án số: 16/2019/HSST, ngày 12-3-2019 Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xử phạt 15 (mười lăm) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21-5- 2021 tại Nhà tạm giữ, Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đến nay; có mặt.

2. Bế Quang T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 14 tháng 12 năm 2000 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bế Văn T, sinh năm 1980 và bà Lưu Thị S, sinh năm 1983; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20-5-2021 tại Nhà tạm giữ, Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lương Văn T, Bế Quang T quen biết nhau và cùng là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy nên nhiều lần cùng đi mua ma túy về sử dụng chung. Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 20-5-2021, Bế Quang T có nhu cầu sử dụng ma túy nên điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98M3-1532 đến nhà Lương Văn T rủ đi mua ma túy. Lương Văn T đồng ý, cả hai điều khiển xe mô tô đi xuống thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang cùng đi mua ma túy, do trước đó cả hai đã từng đến mua ma túy tại trước nhà của Nguyễn Văn D, sinh năm 1989 ở tổ dân phố số 3, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, khi đến nơi Bế Quang T xuống xe đi bộ đến đứng ở bên ngoài cổng và nói vào phía trong là “lấy 3 trắng” rồi đưa 300.000 đồng qua lỗ thủng trên cánh cửa bên trong thì có người ở phía trong cổng nhận tiền và đưa lại cho Bế Quang T 03 gói ma túy Heroine được đựng trong 03 đoạn ống hút nhựa màu trắng. Bế Quang T đã đưa lại cho Lương Văn T cầm ma túy rồi cả hai lên xe máy đi về. Trên đường về Bế Quang T hỏi Lương Văn T “có chỗ nào chơi không” Lương Văn T hiểu là Bế Quang T hỏi địa điểm để sử dụng ma túy nên Lương Văn T bảo Bế Quang T rẽ vào đường đi thôn Đ, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang để sử dụng ma túy. Lương Văn T lấy 01 đoạn ống hút nhựa đựng ma túy ra để cả hai cùng nhau sử dụng. 02 đoạn ống hút nhựa đựng ma túy còn lại Bế Quang T đút trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long rồi cất vào túi quần trước bên phải và tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Lương Văn T về. Đến 23 giờ 10 phút cùng ngày, khi đến chốt kiểm soát dịch bệnh Covid 19 tại thôn B, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn cả hai bị Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn phát hiện, bắt quả tang, tạm giữ người và tang vật gồm: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 02 đoạn ống hút nhựa màu trắng được hàn kín 02 đầu, trong đựng chất cục bột màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng, phần lưng điện thoại màu đen, bị vỡ, số sê ri sim có 05 số cuối 37115; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream màu sơn đỏ, không có yếm, biển kiểm soát 98M3-1532.

Tại Kết luận giám định số: 186/KL-PC09 ngày 22-5-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Chất cục bột màu trắng đựng trong 02 đoạn ống hút nhựa thu giữ của Bế Quang T là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,112 gam (đã trừ bì).

Tại Bản cáo trạng số: 54/CT-VKS, ngày 13 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo Lương Văn T bị truy tố theo điểm a, c khoản 1 Điều 249; bị cáo Bế Quang T bị truy tố theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà các bị cáo Lương Văn T, Bế Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung đã nêu ở trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo Lương Văn T, Bế Quang T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử căn căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; 38; 50; 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lương Văn T từ 18 (mười tám) tháng tù đến 24 (hai mươi tư) tháng tù; căn căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; 38; 50; 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Bế Quang T từ 12 (mười hai) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo do các bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật chất ma túy Heroine cùng các vỏ bao gói hoàn trả sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; trả cho bị cáo Bế Quang T 01 xe mô tô Honda Dream màu sơn đỏ, không có yếm biển kiểm soát 98M3-1532 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng phần lưng điện thoại màu đen, bị vỡ; Imei có 5 số cuối là 49962, lắp sim có số seri 05 số cuối là 37115. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng các bị cáo nhận thấy lỗi lầm của bản thân, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo sớm cải tạo trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Lời khai nhận tội của các bị cáo Lương Văn T, Bế Quang T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ xác định: Lương Văn T, Bế Quang T là người sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 20-5-2021, Bế Quang T điều khiển xe mô tô 98M3-1532 đến nhà Lương Văn T và rủ Lương Văn T đi thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang mua ma túy về sử dụng. Cả hai đã cùng nhau đi mua được 03 gói ma túy Heroine đựng trong 03 đoạn ống hút nhựa màu trắng, đã cùng nhau sử dụng 01 đoạn ống hút ma túy, còn 02 đoạn ống hút ma túy Bế Quang T để trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long đút túi quần mang về. Hồi 23 giờ 10 phút cùng ngày khi đi đến thôn B, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn bị Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn kiểm tra phát hiện bắt quả tang Lương Văn T, Bế Quang T đang Tàng trữ trái phép 0,112 gam chất ma túy Heroine. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo Bế Quang T, Lương Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo Lương Văn T bị truy tố theo điểm a, c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo Bế Quang T bị truy tố theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo thực hiện thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Ma túy là chất gây nghiện cao, có tác hại nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gây thiệt hại về kinh tế. Ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn trong xã hội. Các bị cáo là người có đủ độ tuổi, năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma túy và quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất ma túy nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần được xử lý nghiêm trước pháp luật.

[5] Để cá thể hóa hình phạt, có mức án thỏa đáng đối với các bị cáo cần phải xem xét vai trò, tính chất mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Bị cáo Bế Quang T là người có vai trò tích cực đã khởi xướng, rủ rê bị cáo Lương Văn T, đã sử dụng phương tiện của mình là xe máy, bỏ tiền ra mua ma túy rồi cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy để phục vụ nhu cầu cá nhân các bị cáo. Bị cáo Lương Văn T khi được Bế Quang T rủ đi mua ma túy về sử dụng chung, bị cáo đã nhận lời và cùng chở nhau đi mua ma túy, xác định bị cáo có vai trò đồng phạm giúp sức.

[6] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo là người có nhân thân không tốt đều là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo Lương Văn T đã có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Để giáo dục các bị cáo trở thành người có ích, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ thời gian để các bị cáo cải tạo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, qua đó làm gương cho những người khác có ý định phạm tội tương tự.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền là hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thể hiện: Các bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với tất cả các bị cáo.

[9] Về vật chứng: Đối với 01 (một) phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật chất ma túy Heroine và các vỏ bao gói hoàn trả sau giám định, bên ngoài có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long là vật Nhà nước cấm lưu hành, vật sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 xe mô tô Honda Dream màu sơn đỏ, không có yếm biển kiểm soát 98M3-1532 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng phần lưng điện thoại màu đen, bị vỡ; Imei có 5 số cuối là 49962, lắp sim có số seri 05 số cuối là 37115 không sử dụng để Tàng trữ trái phép chất ma túy cần tuyên trả cho bị cáo Bế Quang T theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[10] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Bế Quang T tại thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, do không biết họ, tên, khi mua ma túy người này đứng trong cánh cổng không quan sát được. Đối với Nguyễn Văn D hiện không có mặt tại địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã có Công văn trao đổi với Công an huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang để xác minh, làm rõ. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét giải quyết trong vụ án này.

[11] Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo và các nội dung khác của vụ án. Xét thấy đề nghị này là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo Lương Văn T, Bế Quang T bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 38, 50; 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lương Văn T;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 38, 50; 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Bế Quang T;

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lương Văn T, Bế Quang T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Lương Văn T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 21-5-2021.

2.2. Xử phạt bị cáo Bế Quang T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 20-5-2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật chất ma túy Heroine cùng các vỏ bao gói hoàn trả sau giám định, bên ngoài có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

3.2. Tuyên trả lại cho bị cáo Bế Quang T 01 xe mô tô Honda Dream màu sơn đỏ, không có yếm biển kiểm soát 98M3-1532; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng phần lưng điện thoại màu đen, bị vỡ; Imei có 5 số cuối là 49962, lắp sim có số seri 05 số cuối là 37115.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16 tháng 8 năm 2021).

4. Về án phí: Các bị cáo Lương Văn T, Bế Quang T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2021/HS-ST ngày 31/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về