Bản án 50/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 50/2021/HS-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2021/QĐXXST- HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh năm 1995 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi cư trú: Ấp A, xã H, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn V và bà Đặng Thị B; có vợ tên Nguyễn Thị Bích D và 01 người con; tiền án: Không có; tiền sự: Có 02 tiền sự:

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 92/QĐ–XPHC ngày 28/7/2020, Trưởng Công an xã H, huyện B, tỉnh Tây Ninh xử phạt Trần Văn T số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo chưa thi hành Quyết định;

- Tại Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã số 06/QĐ-UBND ngày 13/01/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, tỉnh Tây Ninh đối với Trần Văn T thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo chưa chấp hành xong Quyết định Bị bắt, tạm giam ngày 22/3/2021 đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ 00 phút ngày 20/02/2021, Trần Văn T điều khiển xe đến khu vực xã P, huyện C, tỉnh Tây Ninh gặp đối tượng tên “C” không xác định được nhân thân, lý lịch để mua 01 (một) bịch ma túy với số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng. Sau đó T đem ma túy về nhà tại ấp A, xã H, huyện B, tỉnh Tây Ninh và lấy một phần ma túy để sử dụng. Số ma túy còn lại T để trong 01 (một) bịch nylon bỏ vào gói thuốc lá hiệu Jet trong túi quần Jean của T.

Đến khoảng 10 giờ 00 phút ngày 21/02/2021, Công an xã H, huyện B, tỉnh Tây Ninh tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện và thu giữ 01 (một) bịch nylon trong gói thuốc lá hiệu Jet trong túi quần Jean bên phải phía trước của T (ký hiệu M1); 01 (một) bịch nylon trong sọt nhựa đựng rác tại phòng ngủ của T (ký hiệu M2). Ngày 22/02/2021, Công an xã H đã chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm hành chính có dấu hiệu tội phạm đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Biên để xử lý theo thẩm quyền.

Tại cơ quan điều tra, Trần Văn T đã khai nhận rõ toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

- Kết luận giám định số 242/KL-KTHS ngày 25/02/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tây Ninh kết luận:

Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 (một) bịch nylon loại vuốt mép (ký hiệu M1) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1797 (không phẩy một bảy chín bảy) gam, đã sử dụng hết trong công tác giám định;

Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 (một) bịch nylon loại vuốt mép (ký hiệu M2) gửi đến giám định không phải là chất ma túy, khối lượng 0,3887 (không phẩy ba tám tám bảy) gam đã sử dụng hết trong công tác giám định;

- Kết quả kê biên tài sản: Trần Văn T không có tài sản riêng có giá trị nên không tiến hành kê biên.

Bản Cáo trạng số 42/CT-VKSTB ngày 29 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Trần Văn T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên đã truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo T nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình làm công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Biên; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên; Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến và không khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 21/02/2021, tại ấp A, xã H, huyện B, tỉnh Tây Ninh, Trần Văn T thực hiện hành vi cất giấu bất hợp pháp 0,1797 (không phẩy một bảy chín bảy) gam ma túy loại Methamphetamine trong gói thuốc lá hiệu Jet trên túi quần của bị cáo nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Trần Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Bản Cáo trạng số 42/CT–VKSTB ngày 29/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, an ninh chính trị tại địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển con người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác. Vì vậy cần xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc để đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm và tạo điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo đầy đủ, đúng sự thật những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội đã thực hiện. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Hình phạt áp dụng:

[6.1] Hình phạt chính: Bản thân bị cáo Trần Văn T đã bị xử phạt hành chính và áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không sửa chữa những sai phạm của mình. Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[6.2] Hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác minh tài sản, khả năng tài chính của bị cáo T xác định bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối tượng tên “C” bán ma túy cho Trần Văn T không xác định được nhân thân, lý lịch; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Biên chưa tiến hành làm việc được, khi xác minh làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.

Bà Đặng Thị B, chị Nguyễn Thị Bích D không biết việc bị cáo tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện Tân Biên không đề nghị xử lý là có căn cứ.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời gian chấp hành án phạt tù tính từ ngày 22/3/2021.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về