Bản án 50/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

 BẢN ÁN 50/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1028/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2021; quyết định hoãn phiên tòa số 45/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06/4/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị V, sinh năm 1981; thường trú: 925/10/15, tổ 10 (tổ 33A cũ) khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Xuân T, sinh năm 1975; thường trú: Xóm 6, thôn A, xã T, huyện K, tỉnh T; tạm trú: 925/10/15, tổ 10 (tổ 33A cũ) khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/11/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Đỗ Thị V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị V và ông Trần Xuân T sau thời gian tìm hiểu, tự nguyện chung sống, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh T theo Giấy chứng nhận kết hôn số 05 quyển số 01 ngày 20/01/2001.

Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống tại Thành phố H sinh sống, đến năm 2014-2015 chuyển lên D, tỉnh B chung sống. Vợ chồng sống với nhau hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông T gia trưởng, yêu cầu bà V phải thực hiện theo ý kiến của ông T, ông T còn ghen tuông vô cớ, gọi điện đến nơi làm việc làm ảnh hưởng đến uy tín của bà V. Ngoài ra, ông T còn nói xấu bà V với gia đình, bạn bè làm cho bà V cảm thấy bị coi thường, bị xúc phạm danh dự nhân phẩm. Bà V đã nhiều lần tạo điều kiện cho ông T để hàn gắn gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc nhưng không có kết quả. Từ năm 2020 đến nay, vợ chồng sống ly thân, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau, không khí gia đình ngày càng ngột ngạt. Nay bà V xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn với ông T.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 03 con chung Trần Đỗ Hồng N, sinh ngày 16/11/2001, Trần Đỗ Yến N, sinh ngày 13/8/2009 và Trần Đỗ Quỳnh N, sinh ngày 02/10/2012. Sau khi ly hôn, bà V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Trần Đỗ Yến N, sinh ngày 13/8/2009 và Trần Đỗ Quỳnh N, sinh ngày 02/10/2012; không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Con chung Trần Đỗ Hồng N, sinh ngày 16/11/2001 đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Bà Đỗ Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Trần Xuân T: Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ để yêu cầu ông T cung cấp bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 16/3/2021 nhưng vắng mặt không có lý do. Đồng thời, nguyên đơn có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, do vậy vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án triệu tập bị đơn tham gia phiên tòa vào ngày 06/4/2021 và ngày 28/4/2021 nhưng vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án. Việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được xem xét trên cơ sở chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập.

- Tại biên bản ngày 12/3/2021 cháu Trần Đỗ Hồng Nhung trình bày: Từ khi còn nhỏ, Cháu Nh thấy bố áp đặt ý chí với mẹ, bố mẹ thường xuyên xảy ra cãi vã, cuộc sống của bố mẹ rất căng thẳng. Thời gian gần đây, bố mẹ cãi vã nhiều hơn, không quan tâm, chăm sóc nhau, mạnh ai người đó sống. Nhiều khi mâu thuẫn của bố mẹ còn làm ảnh hưởng đến cuộc sống của các con, bố cãi vã với mẹ lại la mắng con, không khí gia đình ngày càng ngột ngạt.

- Biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà V và ông T do Tòa án tiến hành ngày 12/3/2021 tại Hội liên hiệp phụ nữ phường Tân Đông Hiệp có nội dung như sau: Trước khi nộp đơn khởi kiện xin ly hôn tại Tòa án, bà V không yêu cầu chính quyền địa phương tổ chức hòa giải cơ sở. Quá trình chung sống, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng, vấn đề chăm sóc, nuôi dạy con chung như thế nào chính quyền địa phương không nắm rõ vì không thấy đại diện khu phố, nhân dân phản ánh hay cung cấp thông tin gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Về nội dung vụ án, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Đỗ Thị V làm đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Bị đơn ông Trần Xuân T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào ngày 06/4/2021, ngày 28/4/2021 nhưng ông T vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ Điều 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị V và ông Trần Xuân T tự nguyện sống chung với nhau vào năm 2001, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh T theo Giấy chứng nhận kết hôn số 05 quyển số 01 ngày 20/01/2001 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[3] Nguyên đơn xác định quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2014 - 2015 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông T gia trưởng, ghen tuông vô cớ, còn nói xấu bà V với gia đình, bạn bè làm cho bà V cảm thấy bị coi thường, bị xúc phạm danh dự nhân phẩm. Từ năm 2020 đến nay, vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc nhau, không khí gia đình ngày càng ngột ngạt. Điều này phù hợp với lời khai của cháu N. Tòa án đã xác minh tình trạng hôn nhân tại Hội liên hiệp phụ nữ phường T nhưng Hội phụ nữ không biết nguyên nhân mâu thuẫn giữa vợ chồng. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và triệu tập ông T đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông T không có mặt. Do đó, Tòa án không tiến hành hòa giải đoàn tụ quan hệ hôn nhân của vợ chồng.

[4] Mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn cho thấy tình trạng hôn nhân của bà Nhung và ông T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.

[5] Về con chung: Trong quá trình chung sống, bà V và ông T có 03 con chung Trần Đỗ Hồng N, sinh ngày 16/11/2001, Trần Đỗ Yến N, sinh ngày 13/8/2009 và Trần Đỗ Quỳnh N, sinh ngày 02/10/2012. Khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Quá trình tố tụng, ông T không có ý kiến gì về việc bà V yêu cầu được nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, cháu N có nguyện vọng được sống chung với mẹ sau khi cha mẹ ly hôn và cháu N hiện nay còn nhỏ; các cháu là con gái nên cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ để các cháu có thể phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, buộc ông Trần Xuân T giao con chung cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng.

Con chung Trần Đỗ Hồng N, sinh ngày 16/11/2001 đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của nguyên đơn nên Tòa án ghi nhận.

[7] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[8] Từ những phân tích nêu trên, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương là phù hợp.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 227, 228, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều Điều 15, 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị V về tranh chấp ly hôn, nuôi con với bị đơn ông Trần Xuân T

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị V được ly hôn với ông Trần Xuân T.

- Về con chung: Ông Trần Xuân T giao hai con chung Trần Đỗ Yến N, sinh ngày 13/8/2009 và Trần Đỗ Quỳnh N, sinh ngày 02/10/2012 cho bà Đỗ Thị V trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Đỗ Thị V không yêu cầu ông Trần Xuân T cấp dưỡng nuôi con chung.

Con chung Trần Đỗ Hồng N, sinh ngày 16/11/2001 đã trưởng thành, bà V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau ly hôn, bà Đỗ Thị V và ông Trần Xuân T đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở ông bà thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Bà Đỗ Thị V không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đỗ Thị V phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0049017 ngày 24/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 50/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:50/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về