Bản án 50/2021/HNGĐ-ST ngày 27/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA TRI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 50/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 27 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Tri xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 83/2021/TLST-HNGĐ ngày 08/3/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐST - HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Thúy P, sinh năm 1987 (vắng mặt có đơn).

ĐKTT: Ấp 2, xã X, huyện B, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1987 (vắng mặt có đơn).

ĐKTT: Ấp P, xã B, huyện B, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/02/2021 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Võ Thị Thúy P trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Thanh T tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã B vào ngày 29/08/2008. Trong quá trình chung sống chị và anh T không có sự đồng nhất về quan điểm cũng như cách sống nên có sự bất hòa, cuộc sống thường xuyên có mâu thuẫn. Có nhiều lần chị nghĩ đến việc kết thúc mối quan hệ hôn nhân nhưng nghĩ đến con là Nguyễn Võ H còn nhỏ nên đã cố gắng dung hòa. Đến tháng 8/2020 do sự bất hòa không thể hàn gắn được nữa nên chị quyết định ly thân. Đến tháng 02/2021 chị cho rằng đã không còn tình cảm với anh T và giữa hai người đã không thể hàn gắn nên chị yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Võ H, sinh ngày 31/10/2009. Hiện cháu Hương đang sống cùng chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Trong quá trình tố tụng vụ án, bị đơn anh Nguyễn Thanh T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và có trình bày như sau:

Về hôn nhân: Anh và chị P tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B vào năm 2008. Sau khi kết hôn cả hai sống hạnh phúc với nhau hơn 10 năm, đến khoảng năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh đi làm xa (đi xà lan) nên khoảng 03 tháng mới về thăm nhà một lần vì thế chị P nghi ngờ anh có quan hệ với người phụ nữ khác nên hai vợ chồng thường xảy ra cự cãi. Thêm nữa chị P giấu anh thuê nhà trọ sống tại thị trấn Ba Tri mà không cho anh biết. Từ trước đến giờ anh chưa từng đánh đập vợ con, chỉ lo đi làm kiếm tiền chăm lo cho gia đình và hiện anh còn thương vợ con nhưng nếu chị P cương quyết ly hôn thì anh đồng ý.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Võ H, sinh ngày 31/10/2009. Hiện cháu Hương đang sống cùng chị P. Cháu Hương đã trên 07 tuổi nên anh đồng ý giải quyết theo nguyện vọng của cháu. Nếu cháu Hương muốn sống cùng chị P thì anh đồng ý và anh không cấp dưỡng nuôi con. Sau này khi chị P lập gia đình mới thì anh sẽ yêu cầu được trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

* Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát:

- Về thủ tục: Thẩm phán đã thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, cấp tống đạt các văn bản cho đương sự, gởi thông báo thụ lý, hồ sơ đến Viện kiểm sát đúng quy định, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục giải quyết của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán chấp hành đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định, đảm bảo cho các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia giải quyết vụ án nên đủ điều kiện đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Việc nguyên đơn, bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và phiên tòa xét xử vắng mặt là đúng theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Võ Thị Thúy P được ly hôn với anh Nguyễn Thanh T.

+ Về con chung: Giao con chung Nguyễn Võ H, sinh ngày 31/10/2009 cho chị P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và ghi nhận chị P không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra công khai các chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát. Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đều có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ các điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Thúy P và anh Nguyễn Thanh T kết hôn năm 2008 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Do đó, hôn nhân của chị P và anh T là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình giải quyết vụ án, chị P cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn và cương quyết ly hôn. Anh T dù cho rằng còn thương vợ con nhưng do không thể níu kéo nên cũng đồng ý ly hôn. Kết quả xác minh tại địa phương không nắm rõ về mâu thuẫn giữa chị P và anh T, nhưng qua những gì mà chị P, anh T trình bày cho thấy hôn nhân giữa chị P và anh T là không thể hàn gắn được nữa. Do đó, HĐXX xét thấy tình trạng hôn nhân của chị P và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên yêu cầu ly hôn của chị P là có căn cứ phù hợp với quy định khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được HĐXX chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị P và anh T có một con chung tên Nguyễn Võ H, sinh ngày 31/10/2009. Hiện con chung đang sống cùng chị P. Xét yêu cầu tiếp tục nuôi con của chị P là có cơ sở, đảm bảo được sự ổn định cho cuộc sống, việc học hành cũng như tâm sinh lý của các cháu và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu. Anh T cũng đồng ý giao cháu Hương cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng. Do đó, HĐXX chấp nhận giao con chung cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng. Chị P tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên được HĐXX ghi nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên HĐXX không xem xét.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tri phù hợp với các nhận định nêu trên nên được HĐXX chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Võ Thị Thúy P phải nộp án phí hôn nhân gia đình theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 207, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận cho chị Võ Thị Thúy P ly hôn với anh Nguyễn Thanh T.

2. Về con chung: Chị Võ Thị Thúy P có quyền trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Võ H, sinh ngày 31/10/2009. Ghi nhận việc chị P tự nguyện không yêu cầu anh Nguyễn Thanh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Nguyễn Thanh T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở. Khi có nhu cầu, vì lợi ích của con chung, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không có.

4. Về nợ chung: Không xem xét.

5. Về án phí: Chị Võ Thị Thúy P phải nộp án phí hôn nhân gia đình là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào biên lai thu tiền số 0006672 ngày 03/03/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2021/HNGĐ-ST ngày 27/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:50/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Tri - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về