Bản án 50/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU – TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 50/2020/HS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/HSST- QĐ ngày 18 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn D, sinh năm: 1999, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố X, thị trấn Y, huyện Z, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Vệt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: Ngày 20/02/2018, bị Toà án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 12 tháng, chấp hành xong ngày 21/10/2018. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/6/2020 cho đến nay. Có mặt

2. Nguyễn Văn V, sinh năm: 1989, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố X, thị trấn Y, huyện Z, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Vệt Nam; con ông Nguyễn Văn H (chết) và bà Nguyễn Thị M; vợ, con: chưa có; tiền án: Ngày 18/7/2014, bị Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm d khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999 xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo bản án số: 104/2014/HSPT, chưa được xoá án tích; tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/9/2020 cho đến nay. Có mặt 3. Phạm Thái B, sinh năm: 1996, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú và chỗ ở hiện nay: ấp X1, xã Y1, huyện Z, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Vệt Nam; con ông Phạm Văn R và bà Nguyễn Thị P; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: Ngày 08/02/2018, bị Toà án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 18 tháng, chấp hành xong ngày 09/9/2019. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/9/2020 cho đến nay. Có mặt

Bị hại: Anh Nguyễn Tấn V, sinh năm 1996; địa chỉ: ấp X2, xã Y2, huyện Z, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn D1, sinh năm 1986; địa chỉ: ấp X3, xã Y3, huyện Z, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 23/4/2020, tại nhà trọ Anh Vàng thuộc khu phố X, thị trấn Y, huyện Z, tỉnh Tây Ninh, anh Nguyễn Tấn V tổ chức uống rượu cùng Nguyễn Văn D, Nguyễn Thị Kim L, Huỳnh Minh N, Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị T. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày thì hết rượu, D hỏi mượn xe mô tô biển số: 62S1-165.xx của anh Nguyễn Tấn V để đi mua rượu, anh V đồng ý. Sau khi nhận được xe, D điều khiển xe đi được một đoạn thì nhận được tin nhắn của Phạm Thái B rủ đi mua ma túy sử dụng, D đồng ý và đến nhà B. Sau đó, D điều khiển xe mô tô chở B đi mua ma túy, trên đường đi gặp Nguyễn Văn V nên D chở cả B và V đến khu vực phường Phước Bình, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh gặp một người thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ, mua ma túy với số tiền 100.000 đồng, cả ba đem đến khu vực cầu Tà Bang thuộc ấp Voi, xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh cùng sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong, D nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của anh V nên hỏi B và V chỗ thế xe không có giấy chứng nhận đăng ký, B nói biết chỗ thế xe, B hỏi D: “Xe của ai đem thế?”, D trả lời: “Xe mượn của bạn, đem thế” cả B và V cùng nghe. Sau đó D điều khiển xe chở B và V đi đến nơi thế xe. Khi đến gần nơi nhận thế xe, D nói cho B và V biết là mượn xe của bạn để đi mua rượu, nhưng đem thế lấy tiền. Cả ba cùng đến gặp anh Nguyễn Văn D1, sinh năm 1986, ngụ ấp X3, xã Y3, huyện Z, tỉnh Tây Ninh thế xe với số tiền 5.000.000 đồng, nhưng anh Nguyễn Văn D1 chỉ đưa cho D 4.500.000 đồng do đã tính tiền lãi thế xe là 500.000 đồng. Sau khi lấy 4.500.000 đồng tiền thế xe, D có hứa với V cho V mượn 200.000 đồng nhưng sau đó không đưa tiền cho V như đã hứa. Do không có xe để về nên D lấy 1.500.000 đồng chuộc lại xe của B đã cầm cố trước đó rồi cả ba cùng đi về. Số tiền thế xe D đưa B đi ăn hủ tiếu, còn lại D mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân hết. Do thấy số tiền thế xe ít hơn so với giá trị thực tế của xe đã đem thế nên khoảng 10 giờ ngày 25/4/2020, D cùng B đến gặp anh Nguyễn Văn D1 xin nhận thêm 1.000.000 đồng, anh Nguyễn Văn D1 đưa thêm cho D 1.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, D cùng B đến khu vực phía sau Ủy ban nhân dân xã Thanh Phước, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh gặp một người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ, D mua ma túy với số tiền 100.000 đồng đem đến khu vực vườn cao su phía sau Ủy ban nhân dân xã Thanh Phước cùng với B sử dụng, số tiền còn lại D tiêu xài cá nhân hết. Ngày 11/5/2020, anh V đến Cơ quan Công an trình báo sự Vệc và yêu cầu xử lý đối với Nguyễn Văn D.

Kết luận định giá tài sản số: 21/KL-HĐĐGTTTHS ngày 15/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh kết luận: xe mô tô biển số: 62S1-165.xx tại thời điểm ngày 23/4/2020 có trị giá là 12.000.000 đồng.

Ngày 05/6/2020, kiểm tra nồng độ chất ma túy, phát hiện Nguyễn Văn D có kết quả dương tính với chất ma túy. Công an huyện Bến Cầu ra quyết định xử phạt V phạm hành chính.

Bị can Nguyễn Văn V chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành V phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp tái phạm.

Trong quá trình điều tra, các bị can Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn V, Phạm Thái B thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Nguyễn Văn D phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Xe mô tô biển số: 62S1-165.xx đã trả lại cho anh Nguyễn Tấn V là chủ sở hữu.

Về bồi thường thiệt hại: Anh Nguyễn Tấn V yêu cầu bị can Nguyễn Văn D bồi thường 7.450.000 đồng là số tiền anh Nguyễn Tấn V đã chuộc lại xe mô tô biển số: 62S1-165.xx, D chưa bồi thường.

Kê biên tài sản: Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn V, Phạm Thái B không có tài sản nên Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên tài sản.

Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn V và Phạm Thái B đã khai nhận hành V phạm tội của mình, cùng vật chứng bị thu giữ như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 49/CT-KSĐT ngày 14 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn V và Phạm Thái B về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Văn D từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt Phạm Thái B từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Văn V từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung.

Bị hại - anh Nguyễn Tấn V đã khai: Ngày 23/4/2020, bị cáo Nguyễn Văn D mượn xe mô tô biển số: 62S1-165.xx đi mua rượu, nhưng sau đó mang xe đi cầm cố. Anh V đã chuộc lại xe với số tiền 7.450.000 đồng. Do đó, anh V yêu cầu bị cáo D trả lại số tiền 7.450.000 đồng. Đối với xe mô tô biển số: 62S1-165.xx anh nhận lại xong, không bị hư hỏng gì. Về trách nhiệm hình sự yêu cầu xử lý các bị cáo theo quy định pháp luật.

Anh Nguyễn Văn D1, sinh năm 1986, ngụ ấp X3, xã Y3, huyện Z, tỉnh Tây Ninh nhận cầm cố xe mô tô biển số: 62S1-165.xx nhưng không biết do bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội mà có, không đem xe đi tiêu thụ nên không có cơ sở để xử lý về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Riêng hành vi nhận cầm cố tài sản nhưng không có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ cầm đồ theo quy định, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã chuyển hồ sơ để xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.

Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho V tại khu vực phường Phước Bình, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh và người đàn ông đã bán ma túy cho D tại khu vực phía sau Ủy ban nhân dân xã Thanh Phước, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh không rõ họ tên, địa chỉ nên không làm Vệc được, khi nào làm Vệc được sẽ xử lý sau.

Bị cáo D, bị cáo V và bị cáo B nói lời sau cùng: Bị cáo D, bị cáo V, bị cáo B đã ăn năn hối cải về hành V đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành V, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra Vên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát Viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 23/4/2020, tại nhà trọ Anh Vàng thuộc khu phố 1, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, bị cáo Nguyễn Văn D mượn xe mô tô biển số: 62S1-165.xx của anh Nguyễn Tấn V để sử dụng. Sau đó, bị cáo D gặp Nguyễn Văn V, Phạm Thái B và dùng xe mô tô biển số: 62S1-165.xx chở đi mua ma túy cùng nhau sử dụng. Phạm Thái B và Nguyễn Văn V biết rõ xe mô tô biển số: 62S1-165.xx không phải là tài sản của bị cáo D nhưng giúp sức cho bị cáo D cầm cố xe mô tô biển số: 62S1-165.xx để lấy tiền mua ma túy cùng nhau sử dụng và hứa cho mượn tiền, dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho anh V. Theo kết luận định giá tài sản số: 21/KL-HĐĐGTTTHS ngày 15/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh kết luận: Xe mô tô biển số: 62S1-165.xx tại thời điểm ngày 23/4/2020 có trị giá là 12.000.000 đồng. Xét thấy, lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn V và Phạm Thái B đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo qui định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Vụ án mang tính ít chất nghiêm trọng, tuy nhiên hành V phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, gây mất an ninh trật tự địa phương. Bản thân các bị cáo đã thành niên nhưng lười lao động, sau khi nhận được tài sản của bị hại, các bị cáo đã nảy sinh ý định và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, nên cần xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo để răn đe giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo thì thấy rằng: Các bị cáo cùng thống nhất ý chí thực hiện hành vi phạm tội nhưng không thể hiện rõ Vệc phân công nhiệm vụ, vai trò cụ thể, không có sự cấu kết chặt chẽ trong Vệc thực hiện hành vi phạm tội nên trường hợp này chỉ là đồng phạm giản đơn. Bị cáo D là người trực tiếp mượn tài sản của anh Nguyễn Tấn V và đề xuất việc cầm cố để chiếm đoạt tài sản nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự cao nhất trong vụ án. Bị cáo B và bị cáo V giúp sức tích cực cho bị cáo D mang xe đi cầm cố nên các bị cáo chịu trách nhiệm hình sự bằng nhau.

[5] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo D và bị cáo B không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo V đã bị kết án, chưa được xoá tích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đối với bị cáo D và bị cáo B đã bị Toà án áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và mới chấp hành xong, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, nhưng bị cáo D và bị cáo B không biết lấy đó làm bài học để sửa đổi mà tiếp tục vi phạm, sẽ được xem xét khi lượng hình.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo D phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng được quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung, theo qui định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo là làm mướn và không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[8] Ngày 05/6/2020, kiểm tra nồng độ chất ma túy, phát hiện Nguyễn Văn D có kết quả dương tính với chất ma túy. Công an huyện Bến Cầu ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

[9] Đối với Nguyễn Văn D1, sinh năm 1986, ngụ ấp X3, xã Y3, huyện Z, tỉnh Tây Ninh nhận cầm cố xe mô tô biển số: 62S1-165.xx nhưng không biết do bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội mà có nên không có cơ sở để xử lý về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Riêng hành V nhận cầm cố tài sản nhưng không có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ cầm đồ theo quy định, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã chuyển hồ sơ để xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo V tại khu vực phường Phước Bình, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh và người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo D tại khu vực phía sau Ủy ban nhân dân xã Thanh Phước, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh không rõ họ tên, địa chỉ nên không làm việc được, khi nào làm Vệc được sẽ xử lý sau.

[11] Về trách nhiệm dân sự: Anh V chỉ yêu cầu bị cáo D có nghĩa vụ bồi thường số tiền 7.450.000 đồng. Bị cáo D chấp nhận bồi thường cho anh V mà không yêu cầu bị cáo B, bị cáo V liên đới bồi thường nên buộc bị cáo D có nghĩa vụ bồi thường cho anh V số tiền 7.450.000 đồng.

[12] Về xử lý vật chứng: Ghi nhận anh Nguyễn Tấn V đã nhận lại xe mô tô biển số: 62S1-165.xx.

[13] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, buộc bị cáo D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm; bị cáo V, bị cáo B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Văn D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05 tháng 6 năm 2020.

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt Phạm Thái B 01 (một) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02 tháng 9 năm 2020.

3. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Văn V 01 (một) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02 tháng 9 năm 2020.

4. Biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Buộc bị cáo Nguyễn Văn D có nghĩa vụ bồi thường cho anh Nguyễn Tấn V số tiền 7.450.000 (bảy triệu bốn trăm năm mươi nghìn) đồng.

Kể từ ngày 01 tháng 10 năm 2020 cho đến khi thi hành án xong, bị cáo Nguyễn Văn D còn phải chịu khoản tiền lãi trên số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho anh Nguyễn Tấn V.

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 372.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng 572.500 (năm trăm bảy mươi hai nghìn năm trăm) đồng. Buộc bị cáo Nguyễn Văn V và bị cáo Phạm Thái B, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn D, bị cáo Nguyễn Văn V, bị cáo Phạm Thái B được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Tấn V, anh Nguyễn Văn D được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp pháp.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:50/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về