Bản án 50/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN – TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2019/TLST-HS, ngày 28 tháng 8 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2019/QĐXXST-HS, ngày 17 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. HOÀNG VĂN B - sinh ngày 15/01/1993 tại huyện P, tỉnh Bắc Kạn; nơi ĐKHKTT: thôn N, xã B, huyện P, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Sán Chí; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn Đ và bà Trương Thị S; có vợ là: Triệu Thị N và 02 (hai) con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Hoàng Văn B sinh ra và lớn lên tại huyện P, tỉnh Bắc Kạn, được gia đình nuôi ăn học đến lớp 6/12 thì nghỉ học về phụ giúp gia đình lao động sản xuất, năm 2013 thực hiện nghĩa vụ quân sự tại Thái Nguyên đến năm 2014 trở về địa phương. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2018 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. LÝ VĂN N - sinh ngày 08/3/1974 tại huyện P, tỉnh Bắc Kạn; nơi ĐKHKTT: thôn K, xã B, huyện P, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 00/12; dân tộc: Sán Chí; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn C và bà Đặng Thị N (đều đã chết); có vợ là Hoàng Thị H và 03 (ba) con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Lý Văn N sinh ra và lớn lên tại huyện P, tỉnh Bắc Kạn, đang học lớp 01 thì bỏ học ở nhà lao động và phụ giúp gia đình. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2018 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Lý Văn N là: Ông Sầm Văn K – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn. Ông K có mặt.

* Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1979; trú tại: thôn K, xã B, huyện P, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.

* Người phiên dịch tiếng Tày cho bị cáo Lý Văn N là: Ông Nông Văn H (tên gọi khác: Nông Văn T) - sinh năm 1965; trú tại: tổ B, phường X, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn. Ông H có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11h25ngày 11/01/2018 tại khu vực tổ 16, phường S, thành phố BK, tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc Kạn phát hiện và bắt quả tang Lý Văn N và Hoàng Văn B đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Kiểm tra phát hiện, thu giữ trong hậu môn của Lý Văn N 01 bao cao su bên trong có chứa chất ma túy (Heroine) có khối lượng là 8,335 gam; 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 0012509 mang tên chủ xe Lý Văn N; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đỏ đen BKS 97F5 - 6788 và chìa khóa xe; 19.800.000 đồng tiền VNĐ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X2 vỏ màu đen có 02 số IMEL1: 354555050622344 và IMEL2: 3545550622351; 02 bao cao su vỏ ngoài màu trắng bạc còn nguyên vẹn. Phát hiện thu giữ trong hậu môn của Hoàng Văn B 03 gói được gói bằng ni lông màu hồng bên trong có chứa chất ma túy (Heroine) có tổng khối lượng là 10,284 gam; 01 ĐTDĐ nhãn hiệu OPPO màu trắng vàng có số IMEL1: 865262037746757 và IMEL2: 865262037746740 màn hình đã bị vỡ; 800.000 đồng tiền VNĐ.

Tại Cơ quan điều tra Lý Văn N và Hoàng Văn B khai nhận: số chất màu trắng mà phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy thu giữ của N và B là ma túy (Heroine) và khai nhận về nguồn gốc số ma túy đó như sau: khoảng 07 giờ ngày 11/01/2018, Lý Văn N cùng Hoàng Văn B đi xe mô tô biển kiểm soát 97F5 - 6788 của N từ xã B, huyện P, tỉnh Bắc Kạn xuống thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn (N là người điều khiển xe). Ý định của N là đến thành phố BK để thăm con gái đang học tại Trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Bắc Kạn, còn mục đích của B là đến thành phố BK để mua ma túy về sử dụng và để bán cho người khác kiếm lời. Khi đến địa phận thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn khoảng 10 giờ, N với B đi vào khu vực trường Cao đẳng cộng đồng Bắc Kạn, thuộc tổ 17, phường S, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn. Tại đây B hỏi N ‘‘có góp tiền mua ma túy không’’, N đồng ý nên B đã lấy điện thoại của mình gọi điện cho một người đàn ông (trước đó B đã có số điện thoại của người này, nhưng không biết rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể), để hỏi mua ma túy với tổng số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng). Người đàn ông này đồng ý và hẹn B đến bãi đất ở khu vực cầu treo thuộc tổ 18, phường S, thành phố BK. N điều khiển xe máy chở B đến gần khu vực đầu cầu treo thuộc tổ 18, phường S, thành phố BK thì gặp một người đàn ông đi xe máy, đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang, người đàn ông này bảo với B và N tiếp tục đi theo đến khu vực bãi đất trống ở đầu cầu treo thuộc tổ 18, phường S, N dừng xe ở cạnh đường và đưa cho B 7.000.000đ (bảy triệu đồng), B cầm tiền rồi một mình đi đến chỗ người đàn ông đang đứng, B bỏ tiền của mình ra góp thêm vào 3.000.000đ (ba triệu đồng) để đưa cho người đàn ông bán ma túy số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng), sau khi cầm tiền người đàn ông này đưa lại cho B 01 (một) gói ma túy. B mở gói ma túy đã mua ra kiểm tra và chia thành hai phần rồi gói lại, một phần B cất vào trong người, phần còn lại B đưa cho Lý Văn N. Sau đó N để số ma túy được B chia cho vào 01 (một) bao cao su, rồi cất dấu vào trong hậu môn của N. Hoàng Văn B cũng chia phần ma túy của mình thành 03 (ba) gói nhỏ, bọc bằng giấy ni lông, rối cất dấu trong hậu môn của B. Sau đó N và B đi về đến khu vực tổ 16, phường S, thành phố BK thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc Kạn phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy nói trên.

Quá trình điều tra, truy tố Hoàng Văn B đã thành khẩn khai nhận: mục đích B mua số ma túy nói trên về để sử dụng và bán lại cho người khác kiếm lời, để tránh bị phát hiện B đã xóa hết thông tin trong máy điện thoại của mình và cất dấu ma túy trong hậu môn. Còn đối với Lý Văn N, quá trình điều tra, truy tố, N thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình, nhưng lại nại ra mục đích mua số ma túy nói trên về để chữa bệnh cho lợn, gà. Việc N khai mục đích sử dụng ma túy như vậy là không có cơ sở, nhưng không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh Lý Văn N sử dụng ma túy vào mục đích khác.

Tại kết luận giám định số: 20/PC45 - MT ngày 19/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lý Văn N có trong phong bì ký hiệu A3 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 8,335 gam (tám phẩy ba ba năm gam); Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Hoàng Văn B có trong phong bì ký hiệu A5 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 10,284 gam (mười phẩy hai tám tư gam).

Tại bản cáo trạng số: 42/CT - VKSTPBK, ngày 26 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố đối với bị cáo Hoàng Văn B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i, khoản 2, Điều 251/BLHS và bị cáo Lý Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g, khoản 2, Điều 249/BLHS.

* Điều 251/BLHS có nội dung:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm :

a ) ....

i) Heroine, Coaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR -11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.

* Điều 249/BLHS có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm :

 

a ) ..... ;

g) Heroine, Coaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR -11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.

Tại phiên toà:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo B và bị cáo N. Đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị cáo Lý Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị:

* Áp dụng điểm g, khoản 2, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS: xử phạt bị cáo Lý Văn N từ 06 đến 07 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo N.

* Áp dụng điểm i, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS: xử phạt bị cáo Hoàng Văn B từ 07 đến 08 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo B.

* Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 47/BLHS và Điều 106/Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu T20, 01 phong bì niêm phong ký hiệu A4, 01 phong bì niêm phong ký hiệu A6 và 02 bao cao su chưa qua sử dụng; Trả lại cho bị cáo N: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X2; Tịch thu, hóa giá sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động OPPO màu trắng của bị cáo Hoàng Văn B; Trả lại cho chị Hoàng Thị H: 01 (một) xe môtô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đỏ đen, biểm kiểm soát 97F5 - 6788 và chìa khóa xe, 01 (một) đăng ký xe mô tô, xe máy số 0012509 mang tên chủ xe Lý Văn N, số tiền 19.800.000 đồng; Trả lại cho bị cáo B: số tiền 800.000 đồng.

* Về án phí: Đề nghị miễn án phí cho bị cáo N và bị cáo B vì bị cáo N thuộc hộ cận nghèo và bị cáo B thuộc nghèo.

* Người bào chữa cho bị cáo Lý Văn N đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tổng thể vụ án: bị cáo sống ở vùng 135, hiểu biết pháp luật hạn chế, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn và thuộc diện hộ cận nghèo, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g, khoản 2, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS cho bị cáo hưởng mức án dưới mức mà Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị và không áp dụng hình phạt bổ sung “Phạt tiền” đối với bị cáo N; trả lại xe mô tô, số tiền 19.800.000 đồng cho chị Hoàng Thị H và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lý Văn N.

* Bị cáo B và bị cáo N thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy như viện kiểm sát đã truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định như sau:

Khong 10 giờ ngày 11/01/2018, tại khu vực tổ 17, phường S, thành phố BK, tỉnh Bắc Kạn, Hoàng Văn B rủ Lý Văn N cùng nhau đi mua ma túy. Lý Văn N đưa cho Hoàng Văn B 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), B góp thêm 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng), được tổng số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), B cầm tổng số tiền này đến mua của một người đàn ông (Không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể) được 01 gói ma túy (loại Heroine) có tổng khối lượng là 18,619 gam (Mười tám phảy sáu một chín gam) ở tại khu vực cầu treo thuộc tổ 18, phường S, thành phố BK. Sau khi mua được ma túy, B chia cho Lý Văn N cất giữ 8,335 gam (Tám phảy ba ba lăm gam), còn lại 10,284 gam (Mười phảy hai tám tư gam) do trực tiếp Hoàng Văn B cất giữ. Khi Hoàng Văn B và Lý Văn N mang số ma túy nói trên đến khu vực tổ 16, phường S, thành phố BK thì bị tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc Kạn bắt giữ. Mục đích Hoàng Văn B mua ma túy về để bản thân sử dụng và bán cho người khác kiếm lời. Mục đích Lý Văn N mua ma túy về cất giữ để sử dụng vào việc cá nhân; ngoài ra không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Hoàng Văn B biết rõ mục đích mua chất ma túy của Lý Văn N là để sử dụng những vẫn đồng ý mua giúp N nên Hoàng Văn B phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng khối lượng chất ma túy mua cho bản thân và mua hộ Lý Văn N là 18,619 gam. Lý Văn N biết Hoàng Văn B đi mua chất ma túy cho mình và cho cả B, nhưng N vẫn đồng ý góp số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) để mua ma túy và dùng xe mô tô của mình chở B cùng số chất ma túy đã mua được, nên Lý Văn N phải chịu trách nhiệm hình sự chung đối với tổng khối lượng chất ma túy là 18,619 gam.

Hoàng Văn B đã sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng để làm phương tiện liên lạc mua bán trái phép chất ma túy.

Lý Văn N đã sử dụng chiếc xe mô tô HONDA WAVE màu đỏ đen BKS 97F5 - 6788 để làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo Hoàng Văn B về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i, khoản 2, Điều 251/BLHS và bị cáo Lý Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g, khoản 2, điều 249/Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Xét tính chất hành vi các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma tuý, làm gia tăng tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo thấy: Bị cáo Hoàng Văn B và bị cáo Lý Văn N đều có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Hai bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng và đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ là: thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS.

Vật chứng:

- 01(một) phong bì niêm phong ký hiệu T20 ngoài phong bì ghi mẫu hoàn trả vụ Lý Văn N và Hoàng Văn B, mặt sau có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Kạn, có 02 chữ ký không đọc được, tình trạng phong bì còn nguyên vẹn; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A4, mặt trước có ghi: giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu A1 của Lý Văn N, mặt sau có 02 dấu tròn của cơ quan sảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Kạn, 01 dấu điểm chỉ của Lý Văn N và chữ ký giáp lai của những người tham gia niêm phong, tình trạng phong bì còn nguyên vẹn; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A6, mặt trước có ghi: giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu A2 của Hoàng Văn B, mặt sau có 02 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Kạn, có chữ ký giáp lai của Hoàng Văn B và những người tham gia niêm phong, tình trạng phong bì còn nguyên vẹn; 02 bao cao su vỏ ngoài màu trắng bạc còn nguyên vẹn, chưa qua sử dụng: tất cả không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X2 vỏ nhựa màu đen đã qua sử dụng, có số IMEL 354555050622344 và 3545550622351 là tài sản của bị cáo Lý Văn N, không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo N.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng đã qua sử dụng, có số IMEL 865262037746757 và 865262037746740, mặt trước bị vỡ - là tài sản của bị cáo Hoàng Văn B: là phương tiện phạm tội, nên cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đỏ đen, biểm kiểm soát 97F5 - 6788 và chìa khóa xe; 01 (một) đăng ký xe mô tô, xe máy số 0012509 mang tên chủ xe Lý Văn N do phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh Bắc Kạn cấp ngày 25/4/2007, quá trình điều tra xác minh làm rõ được: chiếc xe trên được mua từ tiền riêng của chị Hoàng Thị H (vợ bị cáo N), do chị bán 01 con bò được bố đẻ chị tặng cho riêng mà có, để làm phương tiện đi lại cho cả gia đình, nhưng do chị không biết đi xe máy nên sau khi mua xe đã cho bị cáo N đứng tên đăng ký, việc bị cáo N sử dụng xe vào việc phạm tội chị H không biết. Chị H đề nghị được xin lại chiếc xe, chìa khóa và giấy đăng ký xe. Hội đồng xét xử thấy, khi bị cáo N sử dụng chiếc xe trên vào việc phạm tội thì chị H không biết nên cần thiết trả lại chiếc xe, chìa khóa xe và giấy đăng ký xe cho chị H là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Số tiền 19.800.000 đồng thu trên người bị cáo Lý Văn N: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo N đều khai phù hợp với lời khai của chị H là người có quyền lợi liên quan trong vụ án, theo đó đều xác định số tiền trên là tài sản chung của cả gia đình tiết kiệm được từ tiền Nhà nước đền bù thu hồi đất, bán lợn gà mà có và là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc bị cáo N tự ý mang theo người khi phạm tội thì chị H không biết, bị cáo N và chị H đều đề nghị hội đồng xét xử trả lại số tiền này cho chị H. Hội đồng xét xử thấy, số tiền trên không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo N, chị H và bị cáo N đều có nguyện vọng giống nhau là đề nghị hội đồng xét xử trả lại khoản tiền này cho chị H, nên cần trả lại khoản tiền này cho chị H là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Số tiền 800.000 đồng thu trên người của bị cáo Hoàng Văn B là tài sản bị cáo B, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên trả lại cho bị cáo B.

Về nguồn gốc số ma túy bị cáo Hoàng Văn B, Lý Văn N khai đã mua của một đàn ông không biết họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để xác minh, làm rõ.

Tài liệu trong hồ sơ vụ án xác định hai bị cáo N, B đều không có tài sản, bị cáo B thuộc hộ nghèo, Bị cáo N thuộc hộ cận nghèo, nên hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo B và bị cáo N. Do bị cáo B thuộc hộ nghèo, bị cáo N thuộc hộ cận nghèo nên hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 12, Điều 15 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016: miễn án phí hình sự sơ thẩm cho hai bị cáo.

Từ những phân tích trên, hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Lý Văn N, không chấp nhận mức hình phạt chính mà đại điện viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo Lý Văn N.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đúng quy định.

Vì các lẽ trên; 

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố các bị cáo:

- Hoàng Văn B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Lý Văn N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Căn cứ vào điểm i, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS.

Xử phạt: Hoàng Văn B: 07 năm 06 tháng (Bảy năm sáu tháng) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 11/01/2018.

* Căn cứ vào điểm g, khoản 2, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS:

Xử phạt: Lý Văn N: 05 năm 06 tháng (Năm năm sáu tháng) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 11/01/2018.

* Vật chứng: Áp dụng điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01(một) phong bì niêm phong ký hiệu T20 ngoài phong bì ghi mẫu hoàn trả vụ Lý Văn N và Hoàng Văn B, mặt sau có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bắc Kạn, có 02 chữ ký không đọc được, tình trạng phong bì còn nguyên vẹn; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A4, mặt trước có ghi: giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu A1 của Lý Văn N, mặt sau có 02 dấu tròn của cơ quan sảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Kạn, 01 dấu điểm chỉ của Lý Văn N và chữ ký giáp lai của những người tham gia niêm phong, tình trạng phong bì còn nguyên vẹn; 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A6, mặt trước có ghi: giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu A2 của Hoàng Văn B, mặt sau có 02 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Bắc Kạn, có chữ ký giáp lai của Hoàng Văn B và những người tham gia niêm phong, tình trạng phong bì còn nguyên vẹn; 02 bao cao su vỏ ngoài màu trắng bạc còn nguyên vẹn, chưa qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo N: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X2 vỏ nhựa màu đen đã qua sử dụng, có số IMEL 354555050622344 và 3545550622351.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng đã qua sử dụng, có số IMEL 865262037746757 và 865262037746740, mặt trước bị vỡ.

- Trả lại cho bị cáo B: số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng).

- Trả lại cho chị Hoàng Thị H:

+) 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu đỏ đen, biểm kiểm soát 97F5 - 6788 và chìa khóa xe (tình trạng xe cũ đã qua sử dụng, hai lốp xịt hết hơi, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong); 01 (một) đăng ký xe mô tô, xe máy số 0012509 mang tên chủ xe Lý Văn N do phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh Bắc Kạn cấp ngày 25/4/2007.

+) Số tiền 19.800.000 đồng (Mười chín triệu tám trăm nghìn đồng).

* Về án phí: Căn cứ Điều 12, Điều 15 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hoàng Văn B và Lý Văn N.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo, người có quyền lợi liên quan Hoàng Thị H - có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về