Bản án 50/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Thanh T, tên gọi khác: Lương Văn T; Sinh ngày 03/7/1968 tại xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản H, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ văn hóa: lớp 04/10; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn L (đã chết) và bà Vi Thị P; có vợ là Lương Thị Đ và 04 (bốn) con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 14/3//2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An kết án 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong bản án ngày 26/01/2011, hiện đã được xóa án tích); bị bắt giam từ ngày 18/01/2019 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Công Th, Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Nghệ An; Có mặt;

- Người làm chứng: Anh Vi Khăm H, sinh năm 1986; Trú tại: bản C, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ, ngày 17/01/2019, Lương Thanh T xin ngồi xe của một người đàn ông không quen biết đi từ bản H, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An đến bản S, xã LM, huyện TD, tỉnh Nghệ An để tìm mua ma túy. Đến nơi Lương Thanh T gặp một người đàn ông không quen biết, rồi hỏi và mua của người đó 01 (một) gói hêrôin và 03 (Ba) viên ma túy tổng hợp với số tiền 170.000đ (Một trăm bảy mươi nghìn đồng), mua ma túy xong Lương Thanh T cất giấu vào trong người rồi xin ngồi nhờ xe đi về nhà. Đến khoảng 13 giờ ngày 18/01/2019, Lương Thanh T lấy số ma túy cất giấu vào trong túi quần rồi bắt xe xuống thành phố Vinh, khi Lương Thanh T đi đến khu vực bản T, xã CL, huyện KS, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an huyện KS, tỉnh Nghệ An phát hiện, bắt quả tang thu giữ của Lương Thanh T 01 (một) gói chất màu trắng nghi là hêrôin gói trong bao potylen màu đen và 03 (Ba) viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp được gói trong bao potylen màu đen.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 15 giờ 40 phút, ngày 19/01/2019 đã xác định: Số chất màu trắng (nghi hêrôin) thu giữ của Lương Thanh T có khối lượng 0,1 (không phẩy một) gam, ký hiệu là vật chứng số 1; số viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp) thu giữ của Lương Thanh T có khối lượng 0,3 (không phẩy ba) gam, ký hiệu là vật chứng số 2. Hội đồng đã tiến hành trích 0,05 (không phẩy không năm) gam chất bột màu trắng (ký hiệu M1) và 0,1 (không phẩy một) gam viên nén màu hồng (ký hiệu M2) gửi đi giám định.

Tại kết luận giám định số 306/KL- PC09(MT) ngày 26/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất màu trắng (ký hiệu M1) thu giữ của Lương Thanh T gửi tới giám định là ma tuý (hêrôin); mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M2) thu giữ của Lương Thanh T gửi tới giám định là ma tuý (methamphetamine).

Cáo trạng số 55/CT-VKS-HS ngày 01/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã truy tố Lương Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lương Thanh T đã khai nhận hành vi của mình với các tình tiết như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, mục đích tàng trữ chất ma túy là để sử dụng.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lương Thanh T mức án từ 13 (Mười ba) đến 17 (Mười bảy) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định.

Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, việc bị cáo tàng trữ chất ma túy là để sử dụng, xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi vi phạm của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các chứng cứ tài liệu khác có tại hồ sơ nên đủ cơ sở để kết luận: Ngày 18/01/2019, Lương Thanh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1 (Không phẩy một) gam hêrôin và 0,3 (Không phẩy ba) gam methamphetamine với mục đích để sử dụng. Theo hướng dẫn tại Điều 4 Chương 2 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì tổng khối lượng của hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là: 0,1 gam hêrôin + 0,3 gam methamphetamine = 0,4 gam, như vậy tổng khối lượng của các chất ma túy mà bị cáo Lương Thanh T đã tàng trữ tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, do đó, trong trường hợp này tổng khối lượng của hai chất ma tuý hêrôin và methamphetamine mà bị cáo đã tàng trữ thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý. Vì vậy hành vi đó của bị cáo Lương Thanh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;

a)………………………………………………………………………………………………..

i) Có từ 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng của các chất ma túy đó tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này”.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện, gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức ma túy là chất Nhà nước cấm, vì ma túy gây tác hại xấu đến kinh tế - xã hội, sức khỏe con người và cũng là mầm mống phát sinh tệ nạn xã hội khác nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép chất ma túy làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo đã từng bị kết án về tội phạm ma túy mặc dù đã đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy lần kết án trước làm bài học cho mình để tu dưỡng rèn luyện mà lại tiếp tục phạm tội, điều đó chứng tỏ bị cáo nhân thân xấu, có ý thức coi thường pháp luật, không lấy lần bị kết án trước làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà lại tiếp tục phạm tội, do đó cần xử lý bị cáo nghiêm minh trước pháp luật, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng thấy rằng trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Hình phạt bổ sung: Thấy rằng  bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Lương Thanh T và hai người đàn ông đã cho Toàn ngồi nhờ xe, trong quá trình điều tra chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào có kết quả sẽ xử lý.

[5] Vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của Lương Thanh T, sau khi đã trích gửi đi giám định thì số còn lại là 0,2 (Không phẩy hai) gam ma túy tổng hợp, 0,05 (Không phẩy không năm) gam hêrôin là vật Nhà nước cấm lưu hành nên phải tịch thu tiêu hủy.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điểu tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm. [8] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh và mức hình phạt: Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lương Thanh T (tức Lương Văn T) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lương Thanh T 15 (Mười lăm) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 18/01/2019 (ngày bị cáo bị bắt).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu để tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư bưu điện được dán kín, ở mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và Lương Thanh T bên trong chứa 0,2 (Không phẩy hai) gam ma túy tổng hợp và 0,05 (Không phẩy không năm) gam hêrôin. Vật chứng đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 15 giờ 15 phút ngày 12/4/2019 với Cơ quan Điều tra Công an huyện Kỳ Sơn.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lương Thanh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tuyên bố bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về