Bản án 50/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

NVH, sinh ngày 24 tháng 10 năm 1984 tại Nghệ An. Nơi ĐKHKTT: số 240/3 B, phường C, quận D, thành phố Hải Phòng; nơi ở: số 50 E, phường E, quận D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông F và bà G; có vợ là H và có 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 97/2011/HSST ngày 29/6/2011, TAND quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 24-4-2019, chuyển tạm gian từ ngày 26-4-2019. Có mặt.

- Người chứng kiến:

1. Anh NCK1 - Vắng mặt.

2. Anh NCK2 - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23-4-2019, NVH điều khiển xe máy điện Biển kiểm soát: 15MĐ1-03873 chở mẹ là bà G đi từ nhà sang khu vực chợ hoa quả I, quận D, thành phố Hải Phòng để bán hàng. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, NVH đi xe máy điện một mình sang khu vực đường tàu J, quận K, thành phố Hải Phòng mua 100.000 đồng ma túy của một người đàn ông không quen biết được 02 gói nilon bên trong có chứa ma túy. NVH cầm 02 gói ma túy ở tay trái rồi điều khiển xe đi quanh khu vực nội thành để chờ đón mẹ về. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, khi đi đến khu vực ngã ba đường M - N thuộc phường O, quận D, thành phố Hải Phòng thì bị Công an kiểm tra, bắt giữ, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; thu giữ tại lòng bàn tay trái NVH 02 túi nilon chứa tinh thể màu trắng, 01 xe máy điện Biển kiểm soát: 15MĐ1-03873, 01 điện thoại di động HTC tối màu và số tiền 240.000 đồng.

Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của NVH tại số 50 E, phường E, quận D, thành phố Hải Phòng và đã thu giữ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá bên trong chứa chất lỏng nghi là ma túy, 02 túi nilon và 01 ống hút nhựa bám dính tạp chất nghi là ma túy, 01 cân điện tử, 01 vỏ bao thuốc lá bên trong có chứa 11 túi nilon kích thước 4cm x 7cm.

Tại bản Kết luận giám định số 169/KLGĐ (Đ6) ngày 27/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng của mẫu số 01QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,6371 gam, là loại Methamphetamine. Chất lỏng không màu của mẫu số 01KX gửi giám định tìm thấy dấu vết chất ma túy Methamphetamine. Tinh thể màu trắng bám dính của mẫu số 02KX gửi giám định tìm thấy dấu vết chất ma túy Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, NVH đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người người chứng kiến, Kết luận giám định số 169/KLGĐ (Đ6) ngày 27/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Về tài sản, vật chứng:

- Đối với 01 phong bì niêm phong số ma túy còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 02 túi nilon và 01 ống hút nhựa, 01 cân điện tử, 01 vỏ bao thuốc lá bên trong có chứa 11 túi nilon kích thước 4cm x 7cm, 01 điện thoại di động HTC tối màu và số tiền 240.000 đồng chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng.

- Đối với 01 chiếc xe máy điện Biển kiểm soát: 15MĐ1-03873, quá trình điều tra, Cơ quan Công an đã xác định được không liên quan đến vụ án nên đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà G.

Tại Cáo trạng số 38/CT-VKSHB ngày 07-8-2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng truy tố NVH về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, bị cáo NVH nhận tội, phù hợp với lời khai tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, Kết luận giám định và nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng. Bị cáo NVH thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt: Bị cáo NVH từ 24 tháng đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số ma túy còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 02 túi nilon và 01 ống hút nhựa, 01 cân điện tử, 01 vỏ bao thuốc lá bên trong có chứa 11 túi nilon kích thước 4cm x 7cm. Trả lại cho NVH 01 điện thoại di động HTC tối màu và số tiền 240.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo NVH không có ý kiến tranh luận với quan điểm của Kiểm sát viên, phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho NVH hiện chưa xác định được địa chỉ, lai lịch cụ thể. Vì vậy, cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định t tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Vì vậy, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vng mặt của những người chứng kiến: Tại phiên tòa, những người chứng kiến là anh NCK1 và anh NCK2 vắng mặt không có lý do. Xét thấy, những người chứng kiến đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; tại phiên tòa, bị cáo, Kiểm sát viên đều đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt những người chứng kiến do trước đó những người chứng kiến đã có lời khai tại cơ quan điều tra. Do đó, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt đối với những người chứng kiến.

- Về nhận định các tình tiết của vụ án:

[3] Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, Kết luận giám định, vật chứng thu giữ được, lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 23-4-2019, tại khu vực ngã ba đường M - N thuộc phường o, quận D, thành phố Hải Phòng, lực lượng chức năng đã kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang NVH có hành vi cất giữ trên người 02 túi nilon chứa tinh thể màu trắng. Bị cáo khai nhận đó là ma túy loại Methamphetamine mua về để sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số 169/KLGĐ (Đ6) ngày 27/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng của mẫu số 01QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,6371 gam, là loại Methamphetamine. Chất lỏng không màu của mẫu số 01KX gửi giám định tìm thấy dấu vết chất ma túy Methamphetamine. Tinh thể màu trắng bám dính của mẫu số 02KX gửi giám định tìm thấy dấu vết chất ma túy Methamphetamine. Hành vi trên của bị cáo NVH đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm Luật Phòng, chống ma túy ngày 09 tháng 12 năm 2000 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy ngày 03 tháng 6 năm 2008, mà còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác gây mất trật tự an toàn xã hội. Đây là tệ nạn xã hội gây tâm lý bức xúc trong quần chúng nhân dân nên phải xem xét, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Bản thân NVH có 01 tiền án (đã được xóa án tích) về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tuy nhiên, NVH vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Do đó, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo NVH không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về hình phạt:

[7] Về hình phạt chính: Trên cơ sở đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, mục đích của hình phạt, nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội. Xét thấy, bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy trong một thời gian dài, do vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tù thích hợp mới đảm bảo quy định của pháp luật nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục họ có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới và giáo dục người khác ý thức tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, căn cứ nguyên tắc xử lý của pháp luật hình sự cần khoan hồng đối với người thành khẩn khai báo. Do vậy, áp dụng hình phạt như đề nghị của Viện kiểm sát là có phần nghiêm khắc.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[9] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số ma túy còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 02 túi nilon và 01 ống hút nhựa, 01 cân điện tử, 01 vỏ bao thuốc lá bên trong có chứa 11 túi nilon kích thước 4cm x 7cm. Trả lại cho NVH 01 điện thoại di động HTC tối màu và số tiền 240.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[10] Về các vn đề khác: Đối với người đàn ông bán ma túy cho NVH hiện chưa xác định được địa chỉ, lai lịch cụ thể. Vì vậy, cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau là có căn cứ.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo đi với bản án: Bị cáo NVH phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: NVH 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 24-4-2019.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số ma túy còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 02 túi nilon và 01 ống hút nhựa, 01 cân điện tử, 01 vỏ bao thuốc lá bên trong có chứa 11 túi nilon kích thước 4cm x 7cm. Trả lại cho NVH 01 điện thoại di động HTC tối màu và số tiền 240.000 đồng do không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận giữa Công an quận Hồng Bàng và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành ph Hải Phòng ngày 07-8- 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng và Biên lai thu tiền s AA/2010/7464 ngày 07-8-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng).

- Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2015/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo NVH phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về