Bản án 50/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 09 tháng 5 năm 2019 tại Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Lâm Văn T, sinh năm 1990; tên gọi khác: Cải; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: ấp T, thị t, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 5/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Văn N, sinh năm 1965; và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1966; vợ: Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1997; con Lâm Ngọc Khả A, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 24/11/2018 sau đó chuyển tạm giam đến ngày 10 tháng 12 năm 2018 áp dụng biện pháp đặt tiền bảo đảm cho đến nay.

Bị hại: ng ty cổ phần quản lý bảo trì đường thủy nội địa số 1.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn U - Giám đốc (vắng mặt). Địa chỉ trụ sở: Số 221, đường L, khóm 9, phường 6, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Phạm Anh D (có mặt).

Đa chỉ trụ sở: khóm 1, thị t, huyện T, tỉnh Cà Mau

Chị Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1997 (có mặt).

Đa chỉ: Ấp T, thị t, huyện T, tỉnh An Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ, ngày 06 tháng 11 năm 2018, Lâm Văn T điều khiển ghe số hiệu ĐT-12625 đi từ cống Bà Xã thuộc ấp Tân Lập, xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau đến thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau để chở thuê vật liệu xây dựng. Đi cùng ghe có vợ của Thuận tên Nguyễn Thị Kim C và con gái 01 tuổi, khi đi đến đoạn sông Ông Đốc thuộc ấp Cái Bát, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Lúc này vợ và con của Thuận đã ngủ, Thuận đậu ghe cặp vào 01 cột phao báo tín hiệu phân luồng trên sông số hiệu QG245P041 để tắm rửa và ăn uống, Thuận ăn cơm xong đi ra mở dây ghe và tháo lấy trộm 01 đèn báo hiệu loại SAT- 3.0 GPS số hiệu QG245P041 trên cột phao, sau khi lấy trộm T tháo đèn báo hiệu đã hỏng không còn sử dụng trên mui ghe của T đem lại gắn lên cột phao tín hiệu mà T vừa lấy trộm đèn, sau đó T tiếp tục chạy ghe đến thành phố Cà Mau rồi chạy ghe chở thuê vật liệu xây dựng ở nhiều nơi khác.

Đến ngày 09 tháng11 năm 2018 khi ghe của T đang đậu tại cơ sở vật liệu xây dựng Tám Tâm thuộc ấp Tân Tiến, xã Phong Điền, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau để chở xi măng. Tại đây ghe của T đậu cặp xà lan của Đặng Văn Hiền mang số hiệu KG-57575 thì Hiền thấy trên ghe của Thuận có gắn đèn báo hiệu ánh sáng loại SAT-3.0 GPS số hiệu QG245P041, Hiền biết rõ đèn này là do T trộm cắp mà có nhưng không biết T trộm tại đâu vì Hiền đi ghe nhiều năm nên biết đèn này không có bán trên thị trường nên Hiền biết giá trị của đèn mới cương quyết mua. Hiền hỏi mua đèn của T trộm với giá 500.000 đồng thì T đồng ý bán, Hiền đưa tiền cho Trần Văn Khiêm (người làm công cho Hiền) đi qua ghe của Thuận trả tiền mua đèn và lấy đèn về đưa cho Hiền.

Ngày 22 tháng 11 năm 2018 ông Phạm Anh D – Phó trạm trưởng Trạm quản lý bảo trì đường thủy nội địa Sông Đốc phát hiện đèn báo hiệu trên phao giới hạn luồng tàu chạy loại đèn SAT-3.0 GPS màu xanh, số hiệu QG245P041 đặt trên đoạn sông Ông Đốc, thuộc ấp Cái Bát, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau bị mất trộm hiện đang đặt trên xà lan của Đặng Văn Hiền neo đậu trên sông trước Công ty Bích Khải thuộc ấp Trùm Thuật A, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nên trình báo Công an xã Khánh Hải đến lập biên bản thu giữ đèn hiệu ánh sáng SAT-3.0 ký hiệu QG245P041.

Ngày 23 tháng 11 năm 2018, Lâm Văn T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Trần Văn Thời đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Kết luận định giá số 75/BB KL ngày 27 tháng 11 năm 2018 của Hội đồng định giá Ủy ban nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau kết luận: 01 đèn báo hiệu ánh sáng SAT-3.0 GPS ký hiệu QG 245P041 giá trị 11.677.000 đồng.

Trong quá trình tra bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt là 01 đèn báo hiệu ánh sáng SAT-3.0 GPS ký hiệu QG 245P041 nên không yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 17 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời đã truy tố bị cáo Lâm Văn T theo khoaûn 1 Điều 173 Boä luaät hình sự veà toäi “Trộm cắp tài sản”.

Tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo không tranh luận về tội danh chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lâm Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lâm Văn T từ 09 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự tài sản bị chiếm đoạt đã nhận lại, không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo T; tịch thu tiêu hủy 01 cây đèn loại đèn phát tính hiệu hình trụ tròn, trên nắp đèn có chữ Salarlight và logo hình mặt trời cách đều bị hư hỏng không sử dụng được; 01 cây chìa khóa bằng kim loại màu trắng, một đầu vòng, một đầu miệng, trên thân chìa khóa có số 17 (hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời quản lý).

Đi với hành vi của Đặng Văn Hiền đã bị truy tố về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, ông Hiền đã chết vào ngày 11 tháng 02 năm 2019, nên Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời đã ra Quyết định đình chỉ vụ án số 02/2019/HSST-QĐ ngày 11 tháng 02 năm 2019 đối với Đặng Văn Hiền.

Đi với hành vi của Trần Văn Khiêm, Hiền kêu đi qua ghe của Thuận trả tiền mua đèn và lấy đèn về đưa cho Hiền, Việt không biết Hiền mua tài sản do Thuận trộm nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Văn Thời không khởi tố.

Đi với hành vi của Nguyễn Thị Kim C giữ số tiền 500.000 đồng do Thuận đưa là tiền do Thuận bán tài sản do trộm được mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Văn Thời không khởi tố.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an nhân dân huyện Trần Văn Thời, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra, phù hợp với lời khai bị hại và các chứng cứ có lại hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 22 giờ, ngày 06 tháng 11 năm 2018, Lâm Văn T lợi dụng đêm tối, khi thấy phao phát tín hiệu đèn chiếu sáng trên đoạn sông Ông Đốc thuộc ấp Cái Bát, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau không có người trông coi nên đã lén lút lấy trộm 01 cái đèn báo hiệu ánh sáng SAT-3.0 ký hiệu QG245P041 trên phao. Tài sản bị cáo Lâm Văn T chiếm đoạt được Hội đồng định giá Uỷ ban nhân dân huyện Trần Văn Thời định giá là 11.677.000 đồng. Hành vi của bị cáo Lâm Văn T đã xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của người khác, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, bị cáo đủ năng lực trách nhiệm hình sự, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với hành vi mà bị cáo gây ra. Từ những phân tích trên, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời đã truy tố bị cáo Lâm Văn T theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ pháp luật, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo Lâm Văn T là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại. Bị cáo biết trộm cắp tài sản là hành vi vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm. Nhưng vì bản tính tham lam, nên bị cáo đã bất chấp pháp luật để phạm tội. Hành vi của bị cáo không chỉ vi phạm pháp luật hình sự mà còn gây mất an ninh trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang cho người dân tại địa phương. Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy, bị cáo T có nhân thân tốt; có nơi cư trú rõ ràng; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự thú. Do đó khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ xem xét mức hình phạt và loại hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo thành người công dân tốt có ích cho xã hội. Đồng thời nhằm răn đe, giáo dục, ngăn ngừa các hành vi tương tự xảy ra trong cộng đồng dân cư.

[4] Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lâm Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Lâm Văn T từ 09 tháng đến 01 năm 06 tháng tù là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật. Tuy nhiên xét thấy bị cáo T có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Trần Văn Thời đầu thú. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo Lâm Văn T cũng đảm bảo sự răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo ra đầu thú theo quy định tại điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt bị hại đã nhận lại, bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo T; đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 cây đèn loại đèn phát tính hiệu hình trụ tròn, trên nắp đèn có chữ Salarlight và logo hình mặt trời cách đều, bị hư hỏng không sử dụng được; 01 cây chìa khóa bằng kim loại màu trắng, một đầu vòng, một đầu miệng, trên thân chìa khóa có số 17. Xét thấy số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo T đây là tiền thu lợi bất chính từ việc bị cáo bán tài sản do trộm được mà có nên Viện kiểm sát đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước là phù hợp. Đối với 01 cây chìa khóa bằng kim loại màu trắng, một đầu vòng, một đầu miệng, trên thân chìa khóa có số 17 là vật chứng bị cáo dùng để thực hiện hành vi lấy trộm tài sản, 01 cây đèn loại đèn phát tính hiệu hình trụ tròn, trên nắp đèn có chữ Salarlight và logo hình mặt trời cách đều, bị hư hỏng không sử dụng được nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp (hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời đang quản lý).

Đi với hành vi của Đặng Văn Hiền đã bị truy tố về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, ông Hiền đã chết vào ngày 11 tháng 02 năm 2019, nên Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời đã ra Quyết định đình chỉ vụ án số 02/2019/HSST-QĐ ngày 11 tháng 02 năm 2019 đối với Đặng Văn Hiền nên không xem xét.

Đi với hành vi của Trần Văn Khiêm, Hiền kêu đi qua ghe của T trả tiền mua đèn và lấy đèn về đưa cho Hiền, Việt không biết Hiền mua tài sản do T trộm nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Văn Thời không khởi tố là phù hợp.

Đi với hành vi của Nguyễn Thị Kim C giữ số tiền 500.000 đồng do T đưa là tiền T bán tài sản do trộm được mà có nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trần Văn Thời không khởi tố là có căn cứ.

[7] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lâm Văn T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lâm Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s, i khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lâm Văn T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/11/2018 đến ngày 10 tháng 12 năm 2018).

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo Thuận.

Tch thu tiêu hủy 01 cây chìa khóa bằng kim loại màu trắng, một đầu vòng, một đầu miệng, trên thân chìa khóa có số 17; 01 cây đèn loại đèn phát tính hiệu hình trụ tròn, trên nắp đèn có chữ Salarlight và logo hình mặt trời cách đều, bị hư hỏng không sử dụng được (hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời đang quản lý).

Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lâm Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về