Bản án 50/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TH - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 50/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 18 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TH, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 140 /2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2019/QĐXX-ST ngày 16/8/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 41/2019/QĐST-HNGĐ ngày 04/9/2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1990.

Đa chỉ: Thôn TK, xã VL, huyện TH, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Phạm Thanh T, sinh năm 1984.

Đa chỉ: Thôn TK, xã VL, huyện TH, tỉnh Thái Bình.

( Chị H có mặt tại phiên tòa, anh T vắng mặt tại phiên tòa )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn, quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là chị Trần Thị H trình bày: Chị và anh Phạm Thanh T kết hôn với nhau là tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VL, huyện TH, tỉnh Thái Bình ngày 10/02/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống vui vẻ hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, từ đầu năm 2019 cho đến nay chị và anh T sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện TH giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Thanh T.

Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là Phạm Khánh L, sinh ngày 28/10/2014. Sau khi ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản chung, công nợ: Chị và anh T không có tài sản chung, không nợ ai và không cho ai vay nợ.

Tại bản tự khai và quá trình tố tụng tại Tòa án, bị đơn là anh Phạm Thanh T trình bày: Anh và chị H kết hôn với nhau là tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VL, huyện TH, tỉnh Thái Bình ngày 10/02/2014. Trong quá trình chung sống giữa anh và chị H có xảy ra mâu thuẫn do anh đi làm ăn xa nhà nhưng đó chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh, xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên anh không đồng ý ly hôn với chị H.

Về con chung: Anh và chị H có 01 con chung là Phạm Khánh L, sinh ngày 28/10/2014. Nếu phải ly hôn thì anh xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản chung, công nợ: Anh và chị H không có tài sản chung, không nợ ai và cho ai vay nợ.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, các văn bản tố tụng được tống đạt đầy đủ, đúng thời hạn cho các đương sự. Đối với nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập của Tòa án. Bị đơn chưa chấp hành đầy đủ các quy định của pháp pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử cho chị Trần Thị H được ly hôn với anh Phạm Thanh T; về con chung: Giao con chung Phạm Khánh L, sinh ngày 28/10/2014 cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết; về tài sản chung, công nợ: Không giải quyết; về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa cũng như phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Phạm Thanh T có hộ khẩu thường trú tại xã VL, huyện TH, tỉnh Thái Bình. Theo quy định tại điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” giữa chị Trần Thị H và anh Phạm Thanh T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TH. Bị đơn là anh Phạm Thanh T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, căn cứ vào điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Hoa và anh Phạm Thanh T kết hôn là tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VL, huyện TH, tỉnh Thái Bình. Tại thời điểm kết hôn, chị H và anh T đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Đó là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị H và anh T chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, chị H vẫn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T vì tình cảm vợ chồng không còn. Bị đơn là anh T không đồng ý ly hôn với chị H nhưng anh T không đưa ra được các biện pháp để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng trở về đoàn tụ. Mặt khác, từ đầu năm 2019 cho đến nay chị H và anh T không chung sống cùng nhau, quan hệ vợ chồng không còn tồn tại trên thực tế. Như vậy hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, giải quyết cho chị H được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị H và anh T có một con chung là Phạm Khánh L, sinh ngày 28/10/2014. Cả chị H và anh T đều có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Khánh L và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, con chung của chị H và anh T hiện tại đang sống cùng chị H, hơn nữa cháu Phạm Khánh L còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ hơn. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, giao con chung Phạm Khánh L, sinh ngày 28/10/2014 cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với quy định tại điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chung đương sự không đề nghị Tòa án giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ: Không có.

[2.4] Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[2.5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 228, 271 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị H được ly hôn với anh Phạm Thanh T.

2/ Về con chung: Giao con chung Phạm Khánh L, sinh ngày 28/10/2014 cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

Anh Phạm Thanh T có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3/ Về tài sản chung, công nợ: Không có.

4/ Về án phí: Chị Trần Thị H phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị H đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện TH theo biên lai thu số 0009109 ngày 07/6/2019.

5/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/9/2019).

Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:50/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về