Bản án 50/2018/HS-ST ngày 22/10/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 50/2018/HS-ST NGÀY 22/10/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2018/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018QĐXXST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2018/HSST-QĐ ngày 09 tháng 10 năm 2018 đối với:

Bị cáo Cáp Thành Nh sinh ngày 27 tháng 10 năm 1987 tại thị xã A, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Số nhà 355/8 T P, phường B Đ, thị xã A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Lái xe ô tô; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cáp Văn Th sinh năm 1954 (chết năm 2015) và bàNguyễn Thị C sinh năm 1953; vợ Đoàn Thị L sinh năm 1990 và con Cáp Đoàn Thanh Tr sinh năm 2010; tiền án: Ngày 09/3/2006, bị Tòa án nhân dân huyện A (nay là thị xã A) tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” và “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; ngày 09/02/2008 chấp hành xong hình phạt tù, chưa xóa án tích; ngày 20/10/2011, bị Tòa án nhân dân thị xã A tuyên phạt 05 năm 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 27/7/2015 chấp hành xong hình phạt tù, chưa xóa án tích; tiền sự: Không; bị bắt truy nã, tạm giữ ngày 30/6/2018, tạm giam từ ngày03/7/2018 đến nay, có mặt.

- Bị hại: Anh Âu Nguyên T sinh năm 1991; nơi cư trú; Số nhà 340/2 L D, phường Đ Đ, thị xã A, tỉnh Bình Định, có yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Quốc C sinh năm 1992; nơi cư trú: Số nhà 88/39 H H T, khu vực P A, phường N H, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

Anh Đỗ Tấn T sinh năm 1991; nơi cư trú: khu vực P A, phường N H, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

Chị Nguyễn Nữ Quốc Th sinh năm 1970; nơi cư trú: khu vực P A, phường N H, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

Anh Hà Văn H sinh năm 1983; nơi cư trú: K khu vực P A, phường N H, thị xã A, tỉnh Bình Định, có yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ ánđược tóm tắt như sau:

Để có tiền tiêu xài, Cáp Thành Nh đã nảy sinh ý định thuê xe ô tô của người khác đem đi cầm cố. Ngày 31/12/2017, Nhân đến gặp anh Âu Nguyên T ở số nhà số nhà 340/2 L D, phường Đ Đ, thị xã A, tỉnh Bình Định nói dối với anh T là thuê xe ô tô chở vợ con về quê vợ ở huyện V T, tỉnh Bình Định. T cho Nh thuê xe ô tô 07 chỗ, hiệu Innova, màu bạc, biển kiểm soát 77A-087.12 với giá 700.000đ/ngày, thời gian từ 04 đến 05 ngày. Anh T đưa cho Nh bản chính sổ kiểm định, bảo hiểm xe, bản phô tô có công chứng đăng ký xe ô tô 77A-087.12 mang tên Âu Nguyên T. Sau khi nhận xe và các giấy tờ xe, Nh biết xe ô tô không chính chủ sẽ không cầm cố được nên đã phô tô đăng ký xe 77A-087.12 thành nhiều bản rồi tẩy xóa tên Âu Nguyễn T, sửa lại thành tên Cáp Thành Nh sinh năm 1987 ở 355/8 T P, phường B Đ, thị xã A cho trùng khớp với chứng minh nhân dân của Nh. Nhân nhờ Đỗ Tấn T tìm giúp tìm người nhận cầm cố xe ô tô. T giới thiệu cho Nh với anh Lê Quốc C. Khoảng 20 giờ ngày 08/01/2018 tại quán cà phê “Nẫu” phường B Đ, sau khi xem đăng ký xe ô tô 77A-087.12 (bản phô tô đã được Nh chỉnh sửa mang tên Cáp Thành Nh), chứng minh nhân dân Cáp Thành Nh (bản phô tô) và sổ hộ khẩu gia đình Nh thì anh C đồng ý cho Nh cầm cố xe ô tô 77A-087.12 với giá 50.000.000đ. Sau khi lấy được tiền, Nh cho T 1.000.000đ còn lại Nh sử dụng tiêu xài hết. Đến ngày 10/01/2018, anh T phát hiện Nh đã đem xe ô tô77A-087.12 cầm cố cho anh C nên làm đơn báo công an.

Tại bản Kết luận số 18 ngày 22/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tốtụng hình sự thị xã An Nhơn kết luận: Xe ô tô 07 chỗ ngồi, biển kiểm soát 77A-078.12 Toyota, hiệu Innova màu sơn ghi bạc, đăng ký lần đầu ngày 22/5/2018 trị giá280.000.000đ.

Vật chứng: Xe mô tô biển kiểm soát 77A-078.12 Toyota, hiệu Innova, Cơ quancảnh sát điều tra Công an thị xã A đã hoàn trả cho anh Âu Nguyễn T.

Tại bản Cáo trạng số 30/CT-VKSAN ngày 13/9/2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã A truy tố bị cáo Cáp Thành Nh về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên Tòa bị cáo Cáp Thành Nh khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Cáp Thành Nh về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, các điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Cáp Thành Nhân từ 08 đến 10 năm tù, buộc Cáp Thành Nh hoàn trả cho anh Lê QuốcC 50.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

 [2] Vì cần tiền để chi tiêu, Cáp Thành Nh đã nảy sinh ý định thuê xe ô tô củangười khác đem cầm cố lấy tiền chi dùng. Ngày 31/12/2017, Cáp Thành Nh đến gặp anh Âu Nguyên T thuê chiếc xe ô tô hiệu Innova màu bạc, biển kiểm soát 77A-078.12 với giá 700.000đ/ngày, thời gian thuê từ 04 đến 05 ngày. Nh nói dối với anh T là thuê xe chở vợ con về quê ở huyện V T, tỉnh Bình Định. Anh T đã giao xe ô tô cho Nh cùng với các sổ kiểm định xe, bảo hiểm xe (bản gốc), giấy chứng nhận đăng ký xe (bản phô tô công chứng). Sau khi nhận được xe và các giấy tờ xe, Cáp Thành Nh đã phô tô lại giấy đăng ký xe rồi tẩy xóa tên Âu Nguyên T sửa lại thành tên Cáp Thành Nh để phù hợp vói giấy chứng minh nhân dân của Nh. Nh nhờ Đỗ Tấn T sinh năm 1991 ở khu vực P A, phường N H, thị xã A tìm giúp người nhận cầm cố xe ô tô. T đã giới thiệu cho Nh anh Lê Quốc C ở cùng địa chỉ với T là người nhận cầm cố. Khoảng20 giờ ngày 08/01/2018, tại quán cà phê “Nẫu” ở phường B Đ, thị xã A, anh C và Nh đã thực hiện xong giao dịch cầm cố chiếc xe với giá 50.000.000đ. Số tiền này, Nh cho T 1.000.000đ còn lại trả nợ và tiêu xài.

Ngày 10/01/2018, Anh T phát hiện Nhân đã cầm cố chiếc xe ô tô của mình nên báo cáo với Cơ quan điều tra. Ngày 22/5/2018, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự định giá chiếc xe ô tô hiệu Innova màu bạc, loại 07 chỗ ngồi, biển kiểm soát 77A-078.12 trị giá 280.000.000đ.

 [3] Tại phiên tòa lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quanđiều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan,người làm chứng, tang vật vụ án và các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu thập nên HĐXX có đủ cơ sở kết luận Cáp Thành Nh đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện vào ngày 31/12/2017, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 280.00.000đ nên Viện kiểm sát nhân dân thị xã A đã truy tố bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 là có căn cứ.

 [4] Hành vi của bị cáo Cáp Thành Nh là nguy hiểm cho xã hội. Bằng thủ đoạn gian dối bị cáo đã lừa anh Âu Nguyên T chiếm đoạt chiếc xe ô tô mang đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài, trả nợ. Bị cáo đã xâm hại đến tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội nên cần xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu đã hai lần bị xử lý hình sự về hành vi chiếmđoạt tài sản chưa được xóa án tích, nhưng vẫn không ăn năn, hối cải để trở về cuộc sống lương thiện. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc tình tiết tăng nặng là tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, nên cần có một mức án nghiêm khắc hơn. Bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999.

 [5] Xe ô tô Innova biển kiểm soát 77A-078.12 cùng các giấy tờ liên quan, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã A đã trả lại cho anh Âu Nguyên T là đúng quy định của pháp luật.

 [6] Bị cáo chưa hoàn trả số tiền nhận cầm cố cho anh Lê Quốc C theo giấy mượn tiền ngày 08/01/2018; theo quy định tại Điều 127 Bộ luật dân sự (giao dịch dân sự vôhiệu do bị lừa dối) và khoản 1 Điều 314 Bộ luật dân sự (quyền của bên nhận cầm cố) buộc Cáp Thành Nh phải hoàn trả cho anh Lê Quốc C 50.000.000đ.

 [7] Ngoài ra trong quá trình điều tra, bị cáo Cáp Thành Nh còn khai nhận với động cơ, mục đích và thủ đoạn tương tự, bị cáo đã thực hiện 02 vụ lừa đảo như sau:

- Ngày 10/01/2018, Nhân thuê xe ô tô 05 chỗ hiệu Hyundai, màu bạc biển kiểm soát số 77A-034.40 của chị Lý Ái Anh ở xã P L, huyện T P, tỉnh Bình Định rồi đem cầm cố cho anh Huỳnh Văn H ở tổ 39, khu vực 9, phường Đ Đ, thành phố Q N, tỉnh Bình Định lấy 50.000.000đ tiêu xài.

- Ngày 19/01/2018, Nh thuê xe ô tô 05 chỗ ngồi, hiệu Ford Fiesta biển kiểm soát 77A-085.84 của anh Nguyễn Văn Ph ở Đ Đ, thành phố Q N, tỉnh Bình Định. Trong thời gian tìm người nhận cầm cố xe ô tô của anh Ph thì Nh bị Công an thị xã A triệu tập làm việc về vụ chiếm đoạt xe ô tô của anh T nên Nh đã đem xe ô tô trả lại cho anh Ph.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã A đã thông báo cho Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện T P, Công an thành phố Q N xử lý theo thẩm quyền là đúng quy định pháp luật.

 [8] Về án phí: Bị cáo Cáp Thành Nh phải chịu án phí hình sự sơ thẩm số tiền 200.000đ và án phí dân sự sơ thẩm số tiền 2.500.000đ theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016

 [9] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cáp Thành Nh phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009

Xử phạt bị cáo Cáp Thành Nh 08 (tám) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 30/6/2018

Về dân sự: Áp dụng Điều 127, khoản 1 Điều 314 Bộ dân sự năm 2015, buộc bị cáo Cáp Thành Nh có nghĩa vụ trả cho anh Lê Quốc C 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng)

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Cáp Thành Nh phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơthẩm và 2.500.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HS-ST ngày 22/10/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:50/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về