Bản án 50/2018/HSST ngày 08/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 50/2018/HSST NGÀY 08/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 08 tháng 05 năm 2018, tại Trụ sở tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 50/HSST ngày 06/04/2018; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2018/QĐXXST-HS ngày 27/04/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Hải L. Sinh năm: 1993; Nơi sinh: huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La;

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Bản H, xã H1, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 12/12. Dân tộc: Kinh; Con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm: 1966 và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1970; Có vợ là Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1993; Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 11/01/2018, giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Sơn La cho đến nay; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 11/01/2018 L đi bộ từ nhà tại bản H, xã H1, huyện Mai Sơn đến quán điện tử của anh Chu Văn Q, sinh năm 1983 trú tại thôn 6, xã Chiềng Mung, huyện Mai Sơn chơi điện tử, khi đi L đem theo số tiền 200.000VNĐ. Khi đến quán L ngồi chơi điện tử đến 21 giờ cùng ngày L nảy sinh ý định mua hồng phiến để sử dụng, L đi ra khỏi quán gặp một người nam giới không quen biết đang đi  bộ, L hỏi và trao đổi mua 02 viên hồng  phiến  với  giá 200.000VNĐ với người nam giới đó. Người nam giới đưa cho L 01 gói được gói bằng băng dính màu đen, L nhận rồi quay lại quán điện tử chơi đến 21 giờ 45 phút cùng ngày bị Tổ công tác Công an huyện Mai Sơn phát hiện bắt quả tang và lập biên bản về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: 01 gói được gói bằng băng dính màu đen tiếp theo là lớp giấy bạc bên trogn chứa 02 viên nén màu hồng, bề mặt có ký hiệu WY; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ đen trắng.

Ngày 12.01.2018 cơ quan CSĐT Công an huyện Mai Sơn phối hợp với phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La cân tịnh xác định trọng lượng gói vật chứng thu giữ của Nguyễn Hải L. Tổng khối lượng 02 viên nén màu hồng là 0,18 gam, trích rút toàn bộ ký hiệu M để giám định.

Ngày 16.01.2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản kết luận giám định số 212/KLMT, kết luận: “Mẫu gửi giám định kỹ hiệu M là chất ma túy, loại chất methaphetamine, tổng khối lượng mẫu gửi giám định là 0,18 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 0,18 gam; Loại chất methaphetamine”.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo. Tại phiên toà không phát sinh tình tiết mới.

Tại bản cáo trạng số: 28/CT-VKSMS 06/04/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Hải L với nội dung: Truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mai Sơn để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Hải L về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Qua tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn đã phát biểu ý kiến, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Hải L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt đối với bị cáo như sau:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải L từ 14(mười bốn) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu.

Tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, Model: RM-1133(0168) thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm
200.000VNĐ.

Bị cáo Nguyễn Hải L tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiến nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Nguyễn Hải L khai nhận bản thân là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, ngày 11.01.2018 Nguyễn Hải L đã mua trái phép 200.000VNĐ methaphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân và bị tổ công tác bắt qua tang khi đang tàng trữ 0,18gam methaphetamine. Lời khai của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an huyện Mai Sơn lập hồi 22 giờ 00 phút ngày 11/01/2018; biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, biên bản hỏi cung và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Hải L đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Với việc tàng trữ 0,18 gam methaphetamine mục đích để sử dụng thì Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn truy tố bị cáo tại Bản cáo trạng số: 28/CT-VKSMS ngày 06.4.2018 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, làm tăng tệ nạn nghiện chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy: Bị cáo Nguyễn Hải L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy. Bản thân bị cáo có đủ năng lực nhận thức trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã phạm tội với lỗi cố ý. Quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015.

Từ sự phân tích trên, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt thật nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đủ giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội, từ đó mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa những hành vi tương tự sẽ và đang sẩy ra.

Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo sống phụ thuộc vào gia đình không có tài sản riêng có giá trị, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Khi bắt quả tang hành vi phạm tội của bị cáo, cơ quan điều tra đã thu giữ 0,18 gam methaphetamine trích rút toàn bộ làm mẫu giám định, không hoàn trả mẫu vật.

Đối với 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu. Xét thấy không là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, Model: RM- 1133(0168) thu giữ của bị cáo. Xét thấy là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000VNĐ.

Về nguồn gốc ma túy :  Bị cáo L khai mua cua ngư ời đàn ông không biêt họ tên, tuổi, địa chỉ, quá trình trao đổi không ai biết, chứng kiến nên Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Sơn không có cơ sở để điều tra xác minh.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hải L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải L 14 (mười bốn) tháng tù giam, thời gian thụ hình tính từ ngày 11.01.2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 01 vỏ bao bì niêm phong tang vật ban đầu.

Tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, Model: RM-1133(0168) thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000VNĐ.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HSST ngày 08/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về