Bản án 50/2018/HSST ngày 02/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 50/2018/HSST NGÀY 02/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 49/2018/HSST ngày 28 tháng 03 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 49/QĐXX ngày 16-4-2018 đối với bị cáo:

Lê Vĩnh C; tên gọi khác: (Không có); sinh ngày: 25-5-1977. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Phố T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam: Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không.Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Minh H (Đã chết); Con bà: Lê Thị X; Gia đình có 4 anh em, bị can là con thứ bốn; Họ tên vợ: Nguyễn Thị T; Sinh năm: 1980; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Có 02 con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị can bị bắt quả tang ngày 03-02-2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh.

Người chứng kiến

+ Ông Nguyễn Văn P; sinh:

Địa chỉ: Tổ 11, khu T, phường T, thành phố B, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt

+ Ông Nguyễn Văn Huyến, sinh:

Địa chỉ: Tổ 17, khu G, phường T, thành phố B, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 03-02-2018, tại khu vực ngã tư cổng Bệnh viện Đ, thành phố B, thuộc tổ 23, khu Đ, phường T, thành phố B, tỉnh Quảng Ninh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Uông Bí đã phát hiện, bắt quả tang Lê Vĩnh C đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ tại túi quần phía trước, bên phải C đang mặc 01 (một) túi nilon kích thước (3x5)cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục; thu tại túi quần phía sau bên phải C đang mặc 01 (một) ví giả da màu nâu, bên trong có 1.000.000đ (một triệu đồng), 01 (một) chứng minh nhân dân và 01 (một) giấy phép lái xe đều mang tên Lê Vĩnh C; 01 (một) điện thoại di động Oppo màu đen, đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 194/GĐMT ngày 05-02-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi vật chứng thu của Lê Vĩnh C là ma túy loại Heroine, khối lượng 1,589g (một phẩy năm tám chín gam).

Tại Cơ quan điều tra, Lê Vĩnh C khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy từ trước, khoảng 07 giờ ngày 03-02-2018, C mang theo 2.300.000đ (hai triệu ba trăm nghìn đồng), một mình đón xe khách từ nhà ở thị trấn H, huyện H, tỉnh Quảng Ninh đến thành phố Hải Phòng, mục đích mua ma túy về nhà để sử dụng. Khi đi qua cây xăng B, thuộc thành phố Hải Phòng thì C xuống xe, đi bộ ở dọc đường, thì gặp một người đàn ông không quen biết, mua của người này 1.000.000đ (một triệu đồng) ma túy loại heroine rồi cất giấu vào túi quần phía trước bên phải, sau đó ra đón xe khách về nhà. Khi xe đi đến khu vực ngã tư đèn xanh đèn đỏ, thuộc phường T, thành phố B thì lực lượng Công an dừng xe ô tô khách và yêu cầu C xuống kiểm tra, lực lượng Công an đã bắt quả tang C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Những người chứng kiến là các Ông Nguyễn Văn P, Ông Nguyễn Văn H là người trực tiếp chứng kiến Công an thành phố Uông Bí kiểm tra, phát hiện bị cáo tàng trữ ma túy trên người thì bị bắt giữ cũng có lời khai về toàn bộ nội dung sự việc như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 57/KSĐT-HS ngày 27-3-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị can Lê Vĩnh C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Vĩnh C từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt 03-2-2008.

- Căn cứ: Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự đề nghị:

+ Tịch thu, tiêu hủy phong bì số 194/GĐMT ngày 5-2-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh được niêm phong hoàn lại sau giám định

+ Trả lại cho bị cáo Lê Vĩnh C 1.000.000đ (Một triệu đồng) nhưng tạm giữ lại để đảm bảo việc thi hành án.

(Toàn bộ vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29.3.2018 giữa Công an TP. Uông Bí và Chi cục thi hành án dân sự TP. Uông Bí).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng và các tài liệu, chứng cứ được thu thập, sử dụng tại phiên tòa của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội đối với bị cáo Lê Vĩnh C:

Lời khai của bị cáo Lê Vĩnh C tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng và Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 03-02-2018, tại khu vực ngã tư cổng bệnh viện Đ, thuộc tổ 23, khu Đ, phường T, thành phố B, tỉnh Quảng Ninh, Lê Vĩnh C đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,589g (một phẩy năm tám chín gam) ma túy loại heroine, mục đích để sử dụng thì bị Công an thành phố Uông Bí bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự phạm tội do lỗi cố ý. Xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Vì vây cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo và lời luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt đối vi bị cáo Lê Vĩnh C:

Theo quy tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội này là từ một năm đến năm năm tù. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Bố bị cáo là người có công với cách mạng được nhà nước tặng thưởng huân chương chiến sỹ vẻ vang nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015

Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, người phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Lê Vĩnh C là những người không có nghề nghiệp, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về đối tượng bán ma túy cho bị cáo C.

Cơ quan điều tra chưa làm rõ danh tính, địa chỉ cụ thể đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo C nên không có cơ sở để xử lý trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng:

Vật chứng trong vụ án là 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 194/GĐMT ngày 5-2-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh bên trong có chứa ma túy loại Hêroin thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy. Số tiền 1.000.000 ( một triệu đồng) thu giữ của bị cáo Lê Vĩnh C không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Từ nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015

Tuyên bố bị cáo: Lê Vĩnh C đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Lê Vĩnh C 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 03-2-2018

2. Áp dụng: Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 194/GĐMT ngày 5-2-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh

+ Trả lại cho bị cáo Lê Vĩnh C 1.000.000đ (Một triệu đồng) nhưng tạm giữ lại để đảm bảo việc thi hành án.

(Toàn bộ vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29-3-2018 giữa Công an TP. Uông Bí và Chi cục thi hành án dân sự TP.Uông Bí).

3. Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Lê Vĩnh C phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Áp dụng: Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HSST ngày 02/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về