Bản án 50/2018/HNGĐ-ST ngày 15/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA -VŨNG TÀU

BẢN ÁN 50/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15/10/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 176/2018/TLST-HNGĐ 27/7/2018 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/9/2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2018/QĐST-HNGĐ ngày 27/9/2018, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1966; HKTT: tổ 1, ấp 2, xã 3,huyện Đất Đỏ, tỉnh  Bà Rịa-Vũng Tàu. (có mặt)

2.Bị đơn: Ông Huỳnh Văn B, sinh năm 1966; HKTT: tổ 1, ấp 2, xã 3, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

-Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị A trình bày:

Về hôn nhân: Bà A và ông B tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2007, được Ủy ban nhân dân xã 3, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận kết hôn số 04 ngày 14/01/2009. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc, có tổ chức hỏi cưới. Sau khi lấy nhau vợ chồng về chung sống tại tổ 1, ấp 2, xã 3, huyện Đất Đỏ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân do ông B thường xuyên không quan tâm tới vợ con, chỉ lo uống rượu về ghen tuông vô cớ, đập phá đồ đạc, đe dọa và đánh đập bà A, Công an xã 3 đã triệu tập ông B lên làm việc, khuyên răn nhưng ông B không thay đổi; từ đầu năm 2017 đến nay bà A và ông B đã ly thân, vợ chồng còn sống chung nhà nhưng mạnh ai người ấy sống, không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau, không tự hòa giải được với nhau. Nhận thấy giữa bà A và ông B không còn tình cảm, không còn quan tâm tới nhau nữa nên bà A yêu cầu được ly hôn với ông B.

Về con chung: Bà A và ông B có 01 con chung là Huỳnh Thế N, sinh ngày 13/12/2008, hiện đang sống cùng bà A và ông B; bà A yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung, bà A không yêu cầu ông B cấp dưỡng cho con.

Bà A hiện bán đồ ăn sáng tại nhà, thu nhập mỗi ngày từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng nhưng không có tài liệu để chứng minh.

Về nguyện vọng của con chung: Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/8/2018 (BL28), cháu Huỳnh Thế N có nguyện vọng được sống với bà A.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà A không yêu cầu Toà án giải quyết.

-Bị đơn ông Huỳnh Văn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được lời khai, không tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được.

-Tại phiên tòa: Nguyên đơn bà A giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bà A yêu cầu được ly hôn với ông B, yêu cầu giao con chung cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu ông B cấp dưỡng cho con chung, không yêu cầu Tà án giải quyết về tài sản chung, nợ chung; bị đơn ông B được triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mặt.

-Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tham gia phiên tòa phát biểu:

Về tố tụng: Việc Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ thụ lý vụ án là đúng theo quy định của pháp luật. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình gi ải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, HĐXX cũng như việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án này đúng theo những quy định của BLTTDS, tuy nhiên bị đơn không chấp hành theo triệu tập của Tòa án là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Về yêu cầu của nguyên đơn thì thấy, hôn nhân giữa bà A và ông B là hôn nhân hoàn toàn hợp pháp, có cơ sở xác định giữa hai bên có mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống, hai bên đã ly thân, trong thời gian ly thân hai bên không hòa giải để hàn gắn tình cảm với nhau được, vì thế hai bên không thể về chung sống hạnh phúc bên nhau, mục đích hôn nhân không đạt nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A. Bà A và ông B có 01 con chung là Huỳnh Thế N, sinh ngày 13/12/2008, hiện đang sống cùng bà A và ông B, bà A có công việc và thu nhập để nuôi con, ông B không đến Tòa án để nêu ra ý kiến của mình nên có cơ sở giao con chung cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng, bà A không yêu cầu ông B cấp dưỡng cho con nên không xem xét. Bà A không yêu cầu giải quyết tài sản chung và nợ chung nên không xem xét. Từ phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Bà A yêu cầu ly hôn với ông B, yêu cầu giao con chung cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng nên xác định đây là quan hệ tranh chấp về “ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự (viết tắt là BLTTDS).

[1.2] Về thẩm quyền: Theo đơn khởi kiện và theo kết quả xác minh của Tòa án (BL 01, 26) và điểm a khoản 1 và khoản 3 Điều 5 Nghị quyết số 04/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có đủ cơ sở xác định địa chỉ cư trú của bị đơn ông B là tổ 1, ấp 2, xã 3, huyện Đất Đỏ nên căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

[1.3] Về người tham gia tố tụng: Bị đơn ông B dù đã được Tòa án tống đạt Giấy triệu tập, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định tại các Điều 173, 177, 179 BLTTDS nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 BLTTDS HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông B.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Bà A và ông B có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã 3, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 04 ngày 14/01/2009 (BL 06), theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình hôn nhân giữa bà A, ông B là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Về mâu thuẫn: Theo bà A vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng đầu năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân do ông B thường xuyên không quan tâm tới vợ con, chỉ lo uống rượu về ghen tuông vô cớ, đập phá đồ đạc, đe dọa và đánh đập bà A, Công an xã 3 đã triệu tập ông B lên làm việc, khuyên giải nhưng ông B không thay đổi; từ đầu năm 2017 đến nay vợ chồng đã sống ly thân. Ông B dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, chứng tỏ ông B không muốn duy trì cuộc sống chung với bà A. Theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình thì “vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau…”; qua thực tế xác minh tại địa phương nơi bà A và ông B cư trú (BL 26) thể hiện giữa bà A và ông B xảy ra mâu thuẫn vợ chồng là có thật, địa phương đã tiến hành hòa giải nhưng ông B không chấp hành giấy mời của tổ hòa giải. Nhận thấy mâu thuẫn giữa bà A và ông B là trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, hai bên đã ly thân trong một thời gian dài, vì vậy căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 19 và khoản 1 Điều 51, khoản 1, 3 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A đối với ông B.

[2.2] Về con chung: Bà A và ông B có 01 con chung là Huỳnh Thế N, sinh ngày 13/12/2008, hiện con đang sống cùng bà A và ông B; bà A yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng cho con chung.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình thì “vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con” nhưng ông B không có mặt tại phiên tòa để thể hiện rõ quan điểm của mình về vấn đề này; bà A hiện bán đồ ăn sang hàng ngày tại nhà, thu nhập hàng ngày từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng, tuy không có tài liệu chứng minh về thu nhập nhưng từ khi vợ chồng ly thân, cháu N được bà A chăm lo việc học tập đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức và tại biên bản lấy lời khai (BL 28) cháu Thế có nguyện vọng được sống cùng bà A, HĐXX có cơ sở chấp nhận giao con chung cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng, nếu sau này ông B có tranh chấp và hoàn tất thủ tục sẽ được giải quyết thành 01 vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật, điều này phù hợp với quy định tại các Điều 69, 70, 81, 82, 83, 84, 116 và 117 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà A không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét; nếu sau này các bên liên quan có tranh chấpvà hoàn tất thủ tục sẽ được giải quyết thành 01 vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật, điều này phù hợp với quy định tại Điều 59, Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.4] Về tài liệu chứng cứ: Nguyên đơn bà A đã giao nộp cho Tòa án bản sao các tài liệu, chứng cứ, gồm: Giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh con, chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu gia đình, giấy xác nhận đị a chỉ cư trú của bị đơn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 95 BLTTDS nên được chấp nhận.

Theo quy định khoản 2 và 4 Điều 91 BLTTDS ông B có nghĩa vụ đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh để bảo về quyền lợi của mình; ông B được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, không cung cấp chứng cứ để xác nhận hoặc phản bác yêu cầu của nguyên đơn là từ bỏ quyền tự chứng minh để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Do bị đơn ông B vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên HĐXX chỉ xem xét theo lời trình bày và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn giao nộp, tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập là phù hợp với quy định tại các Điều 93, 94, 95, 96 BLTTDS.

[3] Về án phí: Đối với vụ án hôn nhân và gia đình thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên bà A phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Bà A và ông B được quyền kháng cáo theo quy định Điều 271 và khoản 1 Điều 273 BLTTDS.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

-Các Điều 19, 51, 56, 57, 59, 60, 81, 82, 83, 84, 85, 116 và 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

-Khoản 1 Điều 28, các Điều 35, 39, 173, 177, 179, 227, 228, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

-Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị A đối với ông Huỳnh Văn B.

1.1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị A được ly hôn với ông Huỳnh Văn B.

1.2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị A và ông Huỳnh Văn B có 01 con chung là Huỳnh Thế N, sinh ngày 13/12/2008, hiện đang sống cùng bà A và ông B. Bà A được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung; ông B có nghĩa vụ giao con chung cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Bà A không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng cho con chung.

Sau khi ly hôn bà A, ông B đều có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Ông B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục co n thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì quyền lợi của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng cho con.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà A không yêu cầu Toà án giải quyết.

2. Về án phí: Bà A phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) bà A đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số TU/2017/0001364 ngày 26/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ. Bà A đã nộp đủ án phí ly hôn.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật  Thi hành án dân sự.

3.Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị A có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15/10/2018); đối với ông ông Huỳnh Văn B không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HNGĐ-ST ngày 15/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:50/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về