Bản án 50/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 50/2017/HSST NGÀY 28/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Tè xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 48/2017/HSST, ngày 22 tháng 6 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 49/2017/QĐXX-HSST, ngày 14 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo: Đao Văn T-sinh năm 1969 tại xã P, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú bản H, xã P, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp trồng trọt; Trình độ văn hóa không; Dân tộc thái; Con ông Đao Văn C (đã chết) và con bà Lò Thị V sinh năm 1934; có vợ Tống Thị V và 02 con; Tiền án ngày 19/9/2014 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Lai Châu xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tính đến thời điểm phạm tội chưa được xóa án tích; Tiền sự không; nhân thân đã có án tích; bị bắt tạm giữ ngày 10/4/2017 đến ngày 13/4/2017 bị chuyển tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ ngày 10/4/2017 Đao Văn T đi đến đầu bản X, xã K thì gặp một người phụ nữ dân tộc L, qua trao đổi T mua được 01 gói thuốc phiện với giá 200.000 đồng sau đó T quay về nhà khi đến khu vực bản A, xã P thì bị tổ công tác Công an xã P bắt quả tang và thu giữ của T, 01 gói thuốc phiện qua giám định có khối lượng 1,25 gam. Tại bản kết luận giám định số: 174/GĐ-KTHS ngày 21/4/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Chất nhựa dẻo màu nâu đen có mùi hắc thu giữ của Đao Văn T gửi đến giám định là thuốc phiện. Tại bản cáo trạng số: 28/KSĐT-MT ngày 22 tháng 6 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè truy tố Đao Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"  theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (tương ứng với khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015) tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè vẫn giữ nguyên qua điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS; điểm b Điều 1 Nghị quyết 109/2015/QH13; Nghị quyết 144/2016/QH13; khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 tương ứng với khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Xử phạt Đao Văn T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng Điều 41 BLHS và Điều 76 BLTTHS xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật; không áp dụng khoản 5 Điều 194 BLHS là phạt tiền đối với bị cáo, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận nhất trí với bản luận tội và đề nghị của Kiểm sát viên.

XÉT THẤY

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hớp với các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập có trong hồ sơ vụ án như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 10/4/2017 Đao Văn T đã có hành vi tàng trữ 1,25 gam thuốc phiện mục đích là để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội" Tàng trữ trái phép chất ma túy" vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè đã truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma tuy gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo hiểu được điều đó nưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy Hội đồng  xét xử xét thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội và gia đình. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Xét bị cáo Đao Văn T khi phạm tội chưa được xóa án tích là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48BLHS "Tái phạm" về tình tiết giảm nhẹ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo luôn có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS.

Về nhân thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, từ nhỏ sống với bố mẹ, không được đi học, lớn lên tham gia sản xuất nông nghiệp tại địa phương, bản thân là người sử dụng chất ma túy lâu năm, đã có 01 tiền án nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện chỉ vì mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng chất ma túy ( thuốc phiện) của bản thân nên đã phạm tội.

Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 194 BLHS bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 5 trăm triệu đồng, vì điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình và bản thân bị cáo khó khăn Hội đồng xét xử miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

Vật chứng của vụ án là 1,25 gam thuốc phiện đã được cơ quan công an huyện Mường Tè gửi giám định hết (không hoàn trả mẫu vật) do vậy Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS. Xử phạt bị cáo Đao Văn T 03 năm tù thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/4/207.

- Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UNTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Đao Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về