Bản án 50/2017/HSST ngày 22/06/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 50/2017/HSST NGÀY 22/06/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 6 năm 2017, tại Rạp Z, Trung tâm Văn hóa thể thao huyện Q, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm lưu động, công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2017/HSST ngày 22/5/2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2017/HSST-QĐXX ngày 12/6/2017 đối với: Bị cáo Đinh Công V, sinh năm 1982.

ĐKHKTT: Thôn Đ, xã L, huyện Q, tỉnh Thái Bình;

Quốc tịch: Việt nam; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12;

Bố đẻ: Đinh Công H, sinh năm 1946;

Mẹ đẻ: Đinh Thị M, sinh năm 1947;

Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1985;

Con: Có 03 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2013;

Tiền án, tiền sự : không;

Nhân thân: Tháng 02/2003 tham gia Quân đội, tháng 02/2005 xuất ngũ trở về địa phương;

Danh, Chỉ, Bản số: 4051 Công an huyện Quỳnh Phụ lập ngày 27/4/2017

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26/02/2017, chuyển tạm giam từ ngày 04/3/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

(Có mặt tại phiên toà)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 26/02/2017, tại khu vực ngã tư B, thuộc địa phận tổ 01, thị trấn C, huyện Q, tỉnh Thái Bình, tổ công tác của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm ma tuý, Công an tỉnh Thái Bình làm nhiệm vụ phát hiện và bắt quả tang bị cáo V điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 17B5-xxx.xx có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu V về trụ sở Công an thị trấn C để điều tra làm rõ. Trước sự chứng kiến của ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960, trú tại tổ 04, thị trấn C, huyện Q và ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1964, trú tại tổ 01, thị trấn C, huyện Q, tổ công tác tiến hành kiểm tra người V, thu tại túi áo khoác ngoài bên phải 01 túi nilon trong suốt bên trong có các hạt tinh thể trong suốt, V khai nhận đây là ma túy đá do V mua về để sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung đã cũ và 01 ví giả da màu nâu, bên trong có 470.000 đồng. Kiểm tra xe máy, biển kiểm soát 17B5-xxx.xx không phát hiện thu giữ vật chứng gì. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng.

Tại Cơ quan Công an, V khai nhận: Bản thân nghiện ma túy đang đi cai nghiện bằng hình thức uống thuốc Methadone tại trung tâm y tế huyện Q. Khoảng 11 giờ ngày 26/02/2017, sau khi uống thuốc Methadone ra về, V gặp một người đàn ông tên là M (Là bạn bè quen biết ngoài xã hội) V không rõ họ, địa chỉ, đang đứng ở cổng trung tâm y tế huyện Q, M bảo V: “Có hàng mới về chú dùng thử không?”, V hiểu ý nói đến ma túy đá nên bảo: “Để cho em gói 300.000 đồng”. V đưa cho M 300.000 đồng, M cầm tiền và giao lại cho V 01 túi nilon trong suốt, bên trong chứa các hạt tinh thể. V cất giấu gói ma túy vào túi áo khoác bên phải rồi điều khiển xe máy đi về nhà, khi đi đến khu vực ngã tư B thuộc địa phận tổ 01, thị trấn C thì bị bắt quả tang.

Kết quả giám định số 65/KLGĐ-PC54, ngày 26/02/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu gửi giám định thu của Đinh Công V là ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 3,0268 gam” (Ba phẩy không nghìn hai trăm sáu mươi tám gam)

Tại phiên toà hôm nay bị cáo V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với toàn bộ các chứng cứ, tài liệu đã được cơ quan Điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 45/KSĐT ngày 19 tháng 5 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Đinh Công V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 điều 194 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo V. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, đề nghị áp dụng khoản 1 điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46, các Điều 45, 33 của BLHS, Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc Hội về thi hành BLHS 2015, Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội về việc lùi hiệu lực thi hành của BLHS năm 2015, Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 hướng dẫn áp dụng BLHS 2015, đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 26/02/2017; Đề nghị không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo; Đề nghị áp dụng Điều 76 BLTTHS, Điều 41 BLHS tịch thu gói ma túy để tiêu hủy, trả lại cho bị cáo 01 ví giả da, 01 điện thoại di động cũ và 470.000đồng; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về đoàn tụ với gia đình và hòa nhập với xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đó được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Bình và Công an huyện Quỳnh Phụ; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình và Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và cũng không xuất trình chứng cứ nào thêm. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 26/02/2017, tại khu vực ngã tư B, thuộc địa phận tổ 01, thị trấn C, huyện Q, bị cáo Đinh Công V đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 01 gói ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 3,0268 gam, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 194 của Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ.

Xét về tính chất và mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện, xâm phạm trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Ma tuý đang là hiểm hoạ đối với toàn xã hội, làm huỷ hoại nhân cách con người, suy giảm sức lao động, là tiền đề nảy sinh mọi loại tội phạm khác trong xã hội, đồng thời nó cũng là căn nguyên dẫn đến truyền nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV. Đảng và Nhà nước luôn tuyên truyền và giáo dục trên mọi phương tiện thông tin đại chúng về tác hại của ma tuý cũng như quy định của pháp luật xử lý đối với những hành vi phạm tội về ma tuý. Bị cáo đã coi thường pháp luật, đã cất giấu ma tuý trong người mục đích sử dụng cho bản thân. Vì vậy việc xét xử bị cáo bằng pháp luật hình sự là cần thiết và lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội cũng như tác dụng trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

Xét về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo cho thấy: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, bản thân có thời gian tham gia quân đội, do vậy khi lượng hình cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự để bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ và căn cứ vào Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2016 của Quốc Hội về thi hành BLHS 2015, Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội về việc lùi hiệu lực thi hành của BLHS năm 2015, Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS 2015 thì cần áp dụng theo khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những phân tích nêu trên cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, như mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát thì mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma tuý mục đích sử dụng cho bản thân, hiện tại có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với nguồn gốc số ma tuý bị cáo V khai mua của một người đàn ông tên là M không biết rõ họ và địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ của V một gói ma túy, xác định đây là vật chứng vụ án và là vật Nhà nước cấm lưu hành, cần tuyên tịch thu để tiêu huỷ. Đối với chiếc xe mô tô Wave anpha, biển kiểm soát 17B5- xxx.xx qua điều tra xác định chiếc xe là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị H nên ngày 17/3/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã quyết định trả chiếc xe cho chị H. Ngoài ra Cơ quan Công an còn quản lý của bị cáo 01 điện thoại di động đã cũ, 01 ví giả da và 470.000đồng tiền mặt, những tài sản này thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, vì vậy cần trả lại cho bị cáo là phù hợp với Điều 76 BLTTHS, Điều 41 Bộ luật hình sự.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố Bị cáo Đinh Công V phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; các Điều 45, 33 của Bộ luật hình sự 1999; Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2016 của Quốc Hội về thi hành BLHS 2015, Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự năm 2015

Xử phạt Bị cáo Đinh Công V 02 (Hai) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26 tháng 02 năm 2017.

2/Về vật chứng vụ án.

- Áp dụng Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 41 Bộ luật hình sự.

Tuyên tịch thu 01 gói ma túy, Cơ quan điều tra đã quản lý của bị cáo V vào ngày 26/02/2017, được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình để tiêu huỷ.

Tuyên trả lại bị cáo V 01 ví giả da cũ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung cũ và 470.000 đồng.

Tất cả vật chứng và tài sản trên có đặc điểm như biên bản bàn giao giữa Công an huyện và Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ ngày 22/5/2017 và hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ đang quản lý

3/Về án phí: Bị cáo Đinh Công V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2017/HSST ngày 22/06/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về