Bản án 496/2020/HS-PT ngày 09/10/2020 về tội giết người

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 496/2020/HS-PT NGÀY 09/10/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 09 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 429/2020/TLPT-HS ngày 23 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo Lê Thế A phạm tội “Giết người”, do có kháng cáo của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HSST ngày 13/05/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.

* Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thế A, sinh ngày 24 tháng 02 năm 1987 tại Tuyên Quang;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Làng Th, xã Thiện K, huyện Sơn D, Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn T và bà Mạc Thị M, vợ: Trần Thị Ph (là bị hại trong vụ án), sinh năm 1994; con: có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014;

Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 12/11/2018, bị Uỷ ban nhân dân xã Thiện K, huyện Sơn D, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác 3.250.000 đồng (đã nộp phạt ngày 28/11/2018).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/9/2019, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, có mặt tại phiên tòa.

- Ngươi bao chưa cho bi cao: Bà Hoàng Kim Th1, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Bùi L - Đoàn Luật sư tỉnh Tuyên Quang, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại có kháng cáo: Chị Trần Thị Ph, sinh năm 1994; Nơi cư trú: Thôn Làng Th, xã Thiện K, huyện Sơn D, tỉnh Tuyên Quang; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2011, Lê Thế A kết hôn với chị Trần Thị Ph và cư trú tại thôn Làng Th, xã Thiện K, huyện Sơn D, tỉnh Tuyên Quang. Khoảng cuối năm 2017, do mâu thuẫn tình cảm vợ chồng, chị Ph về nhà ông Trần Văn T và bà Đặng Thị H (là bố, mẹ đẻ chị Ph) ở thôn Văn Sòng, xã Thiện K. Sau đó Thế A cũng đưa 02 con về sinh sống cùng chị Ph, nhưng vẫn xảy ra mâu thuẫn.

Khong 11 giờ ngày 18/9/2019, Lê Thế A đi bộ từ nhà ông Lê Văn T (là bố đẻ) đến nhà ông T để đón cháu Lê Đức Th2 (con của A) về nhà ông T. Khi đến nơi, trong quá trình nói chuyện giữa Thế A và chị Ph xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, chị Ph nói sẽ ly hôn. Sau đó Thế A đưa cháu Th2 đi ra sau bếp nhà ông T để đi tắt về nhà ông T. Lúc này Thế A cởi trần, áo phông vắt trên vai, tay trái xách túi nilon đựng quần áo của cháu Th2, chị Ph cũng đi theo sau.

Khi ra đến bếp, Thế A bảo cháu Th2 đi về trước còn Thế A ở lại nói chuyện với chị Ph. Trong quá trình nói chuyện, giữa Thế A và chị Ph tiếp tục xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, chị Ph nói sẽ viết đơn ly hôn. Thế A đi vào trong bếp thấy con dao nhọn (loại dao bầu, dài 27cm, bản dao chỗ rộng nhất 6,3cm) để trên bếp gas, Thế A cầm dao bằng tay phải, chuôi dao hướng về ngón tay cái, phần mũi dao nhọn hướng về ngón út (tư thế cầm ngược dao), tay trái Thế A vẫn xách túi nilon đựng quần áo rồi đi đến chỗ chị Ph đang đứng ở gần cửa sau bếp.

Nhìn thấy Thế A cầm dao, chị Ph liền bỏ chạy và kêu lên, Thế A đuổi theo được khoảng 2-3m thì đuổi kịp, dùng tay trái túm vào vai trái kéo chị Ph quay lại đối diện với Thế A đồng thời vung tay phải cầm dao đâm về phía chị Ph, chị Ph dùng tay phải nắm vào cổ tay phải Thế A đang cầm dao và dùng tay trái đẩy vào ngực Thế A, nhưng Thế A vẫn dùng tay phải đẩy mạnh dao về phía chị Ph làm chị Ph lùi lại phía sau và ngã nằm ngửa ra nền đất, Thế A cũng ngã theo, đầu gối chân trái quỳ xuống nền đất, đầu gối chân phải tỳ đè lên người chị Ph. Thế A tay phải cầm dao lên đâm từ trên xuống trúng vào ngực bụng chị Ph rồi buông tay ra, dao vẫn cắm ở ngực chị Ph, sau đó chị Ph rút dao ra và vứt ở sân trước cửa nhà ông T.

Khi nghe thấy tiếng kêu cứu của chị Ph, bà Đặng Thị H đang nằm ở giường chạy ra căn ngăn. Thấy bà H chạy đến cách khoảng 1m, Thế A nhặt 01 hòn đá dưới đất ngay trước mặt, kích thước khoảng (4 X 6)cm, theo Thế A khai ném trúng vào đầu bên phải bà H, sau đó Thế A bỏ chạy. Lúc này ông Trần Văn T từ trong nhà cầm dao đuổi theo đến vị trí bờ rào, cách vị trí Thế A dùng dao đâm chị Ph khoảng 30m, Thế A rút 01 cọc rào bằng tre, thấy vậy ông T không đuổi nữa. Thế A chạy về nhà và kể lại toàn bộ sự việc dùng dao đâm chị Ph cho gia đình và bảo mọi người đến để đưa chị Ph đi cấp cứu. Sau đó A được gia đình đưa đến Công an xã Thiện K, huyện Sơn D, tỉnh Tuyên Quang đầu thú.

Chị Ph được đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang và sau đó chuyển lên Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức - Hà Nội cấp cứu, điều trị.

Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số 270/2019/TgT ngày 19/12/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Tuyên Quang, kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Tổn thương 02 xương sườn; tổn thương màng phổi; tổn thương nhu mô thùy dưới phổi phải; vết thương cơ hoành đã phẫu thuật khâu phục hồi; vết thương gan đã khâu.

2. Cơ chế, vật gây thương tích: vết thương ngực - bụng như trên là do vật sắc nhọn tác động trực tiếp gây nên.

3. Căn cứ bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y. Áp dụng Chương 4, Mục II điểm 1, mục IV điểm 1 và mục V điểm 2; Chương 5, mục VII điểm 2.1; Chương 9 mục I điểm 1 và điểm 3, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 60% (sáu mươi phần trăm) theo phương pháp cộng lùi tại thông tư.

Quá trình khám nghiệm hiện trường thu giữ 01 con dao, loại dao bầu một đầu nhọn, một lưỡi sắc, cán dao bằng gỗ, bản rộng nhất 6,3cm có chất màu nâu đỏ bám dính trên bản dao, lưỡi dao (ký hiệu Al); thu giữ tại mép sân (vị trí số 1) chất màu nâu đỏ dạng nhỏ dọt (ký hiệu A2); thu giữ chất màu nâu đỏ tại vị trí A dùng dao đâm chị Ph (vị trí số 3; ký hiệu A3).

Tại Bản Kết luận giám định số 5560/C09-TT3 ngày 31/10/2019 của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an, kết luận:

- Trên con dao gửi giám định (ký hiệu Al) có bám dính máu của Trần Thị Ph, sinh năm 1994, trú tại thôn Văn Sòng, xã Thiện K, huyện Sơn D, tỉnh Tuyên Quang.

- Các chất màu nâu đỏ ghi thu giữ tại vị trí số 01 (ký hiệu A2) và vị trí số 03 (ký hiệu A3) đều là máu của Trần Thị Ph, sinh năm 1994, trú tại thôn Văn Sòng, xã Thiện K, huyện Sơn D, tỉnh Tuyên Quang.

Vt chứng, tài sản tạm giữ và xử lý: Thu giữ tại hiện trường 01 con dao nhọn (loại dao bầu), chất màu nâu đỏ, 01 chiếc áo phông, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HSST ngày 13 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã quyết định:

Căn cứ vào: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 57; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thế A phạm tội “Giết người”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thê A 09 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 18/9/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo cho bị cáo và người bị hại theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 26/5/2020, người bị hại Trần Thị Ph có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lê Thế A.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Lê Thế A tỏ ra rất hối hận hành vi phạm tội của mình và mong được pháp luật khoan hồng giảm nhẹ cho bị cáo.

Người bị hại chị Trần Thị Ph trình bày: Sự việc đáng tiếc đã xảy ra, cũng chỉ tại vì anh ấy (chồng tôi) thương yêu tôi quá mà thôi, rất mong được pháp luật khoan hồng giảm nhẹ cho chồng tôi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Sau khi kiểm tra tính có căn cứ pháp luật, xem xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo và nguyện vọng người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên hành vi của bị cáo là nguy hiểm, bị hại không chết là ngoài ý muốn của bị cáo. Nhân thân bị cáo xấu, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là có căn cứ. Do đó đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thế A, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Hoàng Kim Thu đề nghị Hội đồng xét xử thông cảm cho hoàn cảnh của bị cáo, thái độ sám hối của bị cáo, để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt tù như chính đề nghị của vợ bị cáo là người bị hại trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng và tranh luận tại phiên tòa:

[1 ] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Kiểm sát viên và thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử thì đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và người đại diện của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra tại Cơ quan điều tra; tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 18/9/2019, tại thôn Văn Sòng, xã Thiện K, huyện Sơn D, tỉnh Tuyên Quang, do vợ chồng bị cáo có mâu thuẫn, dẫn đến Lê Thế A đã sử dụng dao nhọn đâm 01 nhát vào ngực chị Trần Thị Ph. Hậu quả chị Ph bị tổn hại sức khỏe 60% (sáu mươi phần trăm). Do bị cáo Lê Thế A có hành vi phạm tội như trên, nên bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Giết người” thuộc trường hợp “phạm tội có tính chất côn đồ” được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy:

Trước khi phạm tội bị cáo Lê Thế A không có tiền án, chỉ có tiền sự: ngày 12/11/2018, bị Ủy ban nhân dân xã Thiện K, huyện Sơn D, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính vì đã có hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác. (bị cáo đã thực hiện xong tức là đã nộp phạt).

Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình để khắc phục hậu quả, bồi thường tổn thất cho người bị hại; Sau khi xét xử sơ thẩm bị hại là vợ của bị cáo đã có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và tại phiên tòa phúc thẩm bị hại thiết tha xin được khoan hồng giảm nhẹ cho bị cáo, nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy cần thiết phải giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt tù để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về hòa nhập với xã hội và gia đình để cùng vợ nuôi dưỡng các con khôn lớn như.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào các Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt tù cho bị cáo của người bị hại Trần Thị Ph, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 57; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thế A 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, giam 18/9/2019.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (09/10/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 496/2020/HS-PT ngày 09/10/2020 về tội giết người

Số hiệu:496/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về