Bản án 49/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 49/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29/6/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố T.N xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 961/2020/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2020 theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số: 75/ 2021/QĐXX - ST ngày 24/5/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Khương Thị Lan A, sinh năm 1981;

Địa chỉ: Tổ Y, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên; (Có mặt tại phiên tòa )

Bị đơn: Ông Ngô Công Đ, sinh năm 1979;

ĐKHKTT: Tổ 15, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên; (Vắng mặt tại phiên tòa )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Khương Thị Lan A trình bày:

Bà và ông Ngô Công Đ kết hôn năm 2005, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc gì và đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố T.N. Sau khi kết hôn, thời gian 05 năm đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Sau đó ông Đ không tu chí làm ăn nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, khoảng hai năm nay ông Đ bỏ đi làm ăn xa, không về nhà, chỉ thỉnh thoảng có gọi điện về để hỏi thăm tình hình của con nhưng cũng không nói cho gia đình biết là đang làm gì, ở đâu. Do ông Đ không có trách nhiệm với vợ con hơn nữa hai vợ chồng không được ở gần nhau một thời gian, dẫn đến tình cảm không còn. Tại phiên toà ngày hôm nay, bà Lan A vẫn xác định không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với ông Đ để giải phóng cho nhau.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Ngô Khương D, sinh ngày 15/3/2006. Khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập ông Ngô Công Đ đến tòa để viết bản tự khai nhưng ông Đ không có mặt, Tòa án đã kết hợp với chính quyền địa phương đến lấy lời khai tại gia đình nhưng ông Đ không có mặt ở nhà nên không lấy được lời khai.

Tại biên bản xác minh ngày 30/12/2020 ông Ngô Ngọc Lâm, tổ trưởng tổ Y phường T, thành phố T.N cho biết: Ông Ngô Công Đ, sinh năm 1979, có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố số Y, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên từ cuối năm 2018 đến nay ông Đ không có mặt tại địa phương, khi đi không thông báo gì và hiện nay địa phương cũng không biết ông Đ đang làm gì, ở đâu.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ ỏn như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của đương sự: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, nguyên đơn, đã chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 71, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, bị đơn chưa chấp hành đỳng quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ Điều 28, 35, 39, 146, 147, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Khương Thị Lan A.

+ Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Khương Thị Lan A được ly hôn ông Ngô Công Đ.

+ Về con chung: Giao cho bà Khương Thị Lan A trực tiếp nuôi dưỡng con chung Ngô Khương D, sinh ngày 15/3/2006 đến khi con đủ 18 tuổi.

Ông Đ có quyền đi lại thăm con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét giải quyết do nguyên đơn không có yêu cầu.

Về tài sản chung: không xem xét giải quyết do đương sự không có yêu cầu.

Về án phí: Bà Lan A phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm được chuyển từ tiền tạm ứng án phí sang.

Tòa án đã tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về toàn bộ nội dung của vụ án nhưng ông Đvắng mặt không tham gia hòa giải, vì vậy Tòa án phải đưa vụ kiện ra xét xử tại phiên tòa công khai ngày hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.

Hôi đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng:

- Về thẩm quyền: Đây là vụ kiện ly hôn, bị đơn là ông Ngô Công Đ có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ Y, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên, khi thụ lý vụ án ông Đ đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án bằng việc niêm yết tại chính quyền địa phương, hiện nay ông Đ không thông báo địa chỉ mới cho Tòa án như vậy theo quy địnhịnh tại Điều 28, 35, điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ - HĐTP ngày 05/ 5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao thì vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T.N.

Ông Ngô Công Đ đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ Y, phường T, thành phố T.N, tỉnh Thái Nguyên, tuy nhiên hiện nay ông Đ đi làm ăn xa nhưng không thông báo địa chỉ mới cho Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, đây được coi là trường hợp cố tình dấu địa chỉ, Tòa án đã niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập phiên tòa tại nơi cư trú và tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T.N, ông Đ vắng mặt 02 lần không có lý do, Hội đồng xét xử quyết Đ xét xử vắng mặt ông Đ theo quy địnhịnh tại khoản 2 Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

2. Về nội dung:

Bà Khương Thị Lan A và ông Ngô Công Đ kết hôn năm 2005 có đăng ký tại UBND phường T, thành phố T.N nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Về nguyên nhân dẫn đến việc ly hôn: Bà Lan A xác Đ mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do ông Đ không tu chí làm ăn, khoảng hai năm nay ông Đ bỏ đi làm ăn xa, không về nhà, chỉ thỉnh thoảng có gọi điện về để hỏi thăm tình hình của con nhưng cũng không nói cho gia đình biết là đang làm gì, ở đâu, vợ chồng sống ly thân nhau.

Nay bà Khương Thị Lan A xác Đ tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không hòa giải được, mục đích hôn nhân không đạt được, bà xin được ly hôn để giải phóng cho nhau.

HĐXX thấy rằng: Mâu thuẫn của bà Khương Thị Lan A và ông Ngô Công Đ đã trầm trọng, quan hệ hôn nhân giữa các đương sự đã thực sự tan vỡ, hai vợ chồng đã sống ly thân nhau từ cuối năm 2018 đến nay, việc D trì quan hệ hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Khương Thị Lan A, cho bà Khương Thị Lan A được ly hôn ông Ngô Công Đ là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Ngô Khương D, sinh ngày 15/3/2006.

Khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

“ 1. Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; Trường hợp không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện nay bà Khương Thị Lan A đang là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông Đ thường xuyên đi làm ăn xa không có mặt ở nhà. Do vậy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của bà Khương Thị Lan A, giao cho bà Khương Thị Lan A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

- Về tài sản chung, nợ chung:

Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết do nguyên đơn xác định không có tài sản chung và nợ chung nên không có yêu cầu Tòa án giải quyết, bị đơn vắng mặt không cung cấp được lời khai cho Tòa án. Nếu sau khi ly hôn, hai bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung thì được giải quyết bằng một vụ án khác.

Về án phí: Căn cứ Điều 146, 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bà Khương Thị Lan A phải nộp 300.000đ án phí LHST vào ngân sách nhà nước được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28, 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 146, 147, Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các Điều 51,56, 81,82,83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Khương Thị Lan A.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Khương Thị Lan A được ly hôn ông Ngô Công Đ.

- Về con chung: Giao cho bà Khương Thị Lan A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Ngô Khương D, sinh ngày 15/3/2006 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Ông Đ có quyền đi lại thăm con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét giải quyết do đương sự không có yêu cầu.

-Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2.Về án phí: Bà Khương Thị Lan A phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm vào ngân sách nhà nước được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003842 ngày 02/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.N.

3.Về quyền kháng cáo: Báo cho bà Khương Thị Lan A có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông Ngô Công Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:49/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về