Bản án 49/2020/HSST ngày 04/09/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 49/2020/HSST NGÀY 04/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 04 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2020/TL-HSST ngày 20/8/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2020/QĐXXST-HS ngày 24/8/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn H, sinh ngày: 06/10/1952 Nơi ĐKNKTT: Thôn Bắc Sơn, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi tạm trú: thôn Đông Mật, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề ngH: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; bố Trần Văn Đệ, sinh năm 1930, đã chết; mẹ: Trần Thị Đầm, sinh năm 1931, đã chết; vợ: Nguyễn Thị Lanh, sinh năm 1957, làm ruộng tại xã Sơn Đông; con: có 01 con sinh năm 1980; tiền án, tiền sự:

không; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan;

1. Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1989 Nơi cư trú: thôn Bồ Thầy, xã Bàn Giản, Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Trung T, sinh năm 2002 Nơi cư trú: thôn Sơn Phùng, xã Văn Quán, Lập Thạch, Vĩnh Phúc, vắng mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Việt Hùng, sinh năm 2002 Nơi cư trú: thôn Đông Mật, xã Sơn Đông, Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 03/06/2020, Nguyễn Trung T và Nguyễn Việt Hùng đi học về và rủ nhau đến nhà Hùng chơi. Khi đi đến gần ngã tư xã Sơn Đông thì T và Hùng gặp Nguyễn Văn D (bạn của T). T rủ và D, Hùng đồng ý đi chơi cùng. Khi đi qua cổng nhà Trần Văn H thì D chỉ tay vào nhà H và nói: “Vào đây tí”, nghĩ là người quen của D nên T và Hùng đồng ý. Khi vào, thấy H ở nhà một mình, D hỏi và được H đồng ý bán cho D số lô, số đề. H lấy ra một quyển sổ kiểu vở học sinh và 01 chiếc bút bi mực màu đen rồi cùng D ngồi xuống bàn uống nước ở gian cạnh phòng khách nhà H. D đọc và mua của H các số lô 35, 53 mỗi số 50 điểm; các số lô 08, 80 mỗi số 20 điểm; mỗi điểm 23.000đ để H viết vào sổ. Tổng số tiền D phải trả H là 3.220.000đ, D đưa H 3.100.000đ và còn nợ H 120.000đ. Thấy vậy, T cũng hỏi mua các số lô 09, 90, 92, 01, 10 mỗi số 20 điểm, mỗi điểm 23.000đ. H cũng viết các số lô này vào quyển sổ trên, sau đó T đưa cho H số tiền 2.300.000đ là số tiền mua các số lô của H. Sau đó, D tiếp tục hỏi mua của H các số đề 26, 62, 78, 55 mỗi số 50.000đ thì H đồng ý và tiếp tục ghi các số đề trên vào sổ. Cùng lúc này Công an huyện lập Thạch phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên tay H số tiền 5.400.000đ là tiền bán các số lô, số đề cho D và T mà có; 01 chiếc bút bi mực màu đen H dùng để ghi các số lô, số đề; 01 quyển sổ dạng vở học sinh có bìa màu xanh- trắng, bên trong là giấy trắng dòng kẻ ngang, trang 01 và trang 02 có ghi các số lô, số đề đã bán, các trang còn lại chưa ghi gì.

Tại cơ quan điều tra, Trần Văn H và các đối tượng đều khai nhận thống nhất mức sát phạt trúng lô, đề là: Kết quả lô, đề căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng vào 18 giờ hàng ngày để làm căn cứ xác định thắng hay thua. Số lô là số các con bạc mua đối chiếu với hai số cuối của tất cả các giải mở thưởng, nếu có số lô nào trùng thì con bạc đó thắng. Một điểm lô tương ứng với số tiền người mua phải bỏ ra là 23.000đ, nếu không trúng thì người mua mất 23.000đ, nếu trúng thì người mua được trả 80.000đ/1 điểm. Số đề là số mà người mua đối chiếu với hai chữ số cuối cùng của giải đặc biệt, nếu trùng là trúng thưởng và được 70 lần số tiền đã mua.

Quá trình điều tra làm rõ: trước đó ngày 22/03/2020, tại nhà ở của H, H đã bán các số lô 07, 28 mỗi số 5 điểm; các số đề 23, 32, 56, 65, 38, 83 mỗi số 10.000đ cho hai nam thanh niên không biết tên, tuổi, địa chỉ. Tổng số tiền bán số lô, số đề cho hai đối tượng trên là 290.000đ. Do không có ai trúng số lô, số đề nên H được hưởng toàn bộ số tiền trên.

Ngày 04/6/2020, H tự nguyện giao nộp số tiền 290.000đ do bán số lô, số đề ngày 22/03/2020 mà có. Ngày 06/06/2020, NguyễnVăn D tự nguyện giao nộp Cơ quan điều tra số tiền 320.000đ (trong đó: 120.000đ là tiền mua số lô còn thiếu của H; 200.000đ là tiền mua số đề của H nhưng chưa kịp trả thì bị bắt quả tang).

Quá trình điều tra xác định: Tổng số tiền các đối tượng sử dụng để mua số lô, số đề của H là 6.010.000đ. Trong đó, Nguyễn Văn D có 3.420.000đ; Nguyễn Trung T có 2.300.000đ và hai nam thanh niên không rõ lai lịch là 290.000đ. Do Nguyễn Văn D và và Nguyễn Trung T chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị kết án về hành vi đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc nên lần vi phạm này không thuộc các trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với Nguyễn Trung T sau khi bị bắt quả tang đã lợi dụng sơ hở bỏ trốn, đến ngày 09/6/2020 mới triệu tập làm việc được. Ngày 24/7/2020, Công an huyện Lập Thạch đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với D và T.

Đối với Nguyễn Việt Hùng đi chơi cùng D không tham gia gì, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với hai nam thanh niên mua số lô, số đề của H ngày 22/03/2020, do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Tại bản cáo trạng số: 49/CT-VKS-TA ngày 18 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch truy tố Trần Văn H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên – đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch luận tội đối với bị cáo Trần Văn H. Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Sau khi đánh giḠtính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn H từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo H.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 6.010.000đ thu giữ của H và D.

Tịch thu tiêu hủy 01 bút bi mực màu đen.

Lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 quyển sổ có bìa màu xanh – trắng, bên trong ghi các số lô, số đề.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Văn H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Văn H khai nhận toàn bộ hành vi Đánh bạc ngày 03/6/2020, như nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng, ngoài ra không có lời bào chữa nào khác.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng pháp luật.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tài liệu điều tra trong hồ sơ thể hiện, khoảng 17 giờ ngày 03/06/2020, Nguyễn Trung T, Nguyễn Văn D và Nguyễn Việt Hùng vào nhà Trần Văn H. Tại đây H bán cho D số lô 35, 53 mỗi số 50 điểm; các số lô 08, 80 mỗi số 20 điểm; mỗi điểm 23.000đ. Tổng số tiền D phải trả H là 3.220.000đ, D đưa H 3.100.000đ và còn nợ H 120.000đ và bán cho D số đề 26, 62, 78, 55 mỗi số 50.000đ. H bán cho T các số lô 09, 90, 92, 01, 10 mỗi số 20 điểm, mỗi điểm 23.000đ, sau đó T đưa cho H số tiền 2.300.000đ là số tiền mua các số lô của H. Cùng lúc này Công an huyện lập Thạch phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên tay H số tiền 5.400.000đ là tiền bán các số lô, số đề cho D và T mà có; 01 chiếc bút bi; 01 quyển sổ có bìa màu xanh-trắng, bên trong trang 01 và trang 02 có ghi các số lô, số đề đã bán.

Quá trình điều tra làm rõ: trước đó ngày 22/03/2020, H đã bán các số lô 07, 28 mỗi số 5 điểm; các số đề 23, 32, 56, 65, 38, 83 mỗi số 10.000đ cho hai nam thanh niên không biết tên, tuổi, địa chỉ. Tổng số tiền bán số lô, số đề cho hai đối tượng trên là 290.000đ. Do không có ai trúng số lô, số đề nên H được hưởng toàn bộ số tiền trên.

Xét lời nhận tội của bị cáo H phù hợp với các lời khai, bản kiểm điểm của bị cáo; lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng; tang vật chứng đã thu giữ được và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Văn H phạm tội "Đánh bạc", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Điều luật quy định: “1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền… trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng…, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm".

Xét tính chất vụ án tuy là ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội; hành vi đánh bạc được thua bằng tiền giữa ban ngày, với nhiều người tham gia đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận bất bình trong nhân dân. Vì vậy cần phải đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật và có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nghiêm trọng mà hành vi mà bị cáo gây ra để cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe giáo dục, phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân của bị cáo H thấy rằng: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên Hội đồng cũng xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo, có thể xem xét xử phạt bị cáo mức án tù cho hưởng án treo và ấn định một thời gian thử thách nhất định, dưới sự giám sát giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình bị cáo. Như vậy cũng đủ điều kiện để bị cáo tự cải tạo mình trở thành người công dân có ích cho xã hội và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Xã hội chủ nghĩa.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”. Tuy nhiên theo tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo tuổi đã cao, là lao động tự do, không có việc làm ổn định, không có thu nhập, kinh tế gia đình khó khăn. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về xử lý tang, vật chứng vụ án gồm có: Số tiền 6.010.000đ thu giữ của Trần Văn H, Nguyễn Văn D là tiền các đối tượng dùng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 bút bi mực màu đen, H dùng để ghi số lô, số đề khi bán cho D và T là công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 quyển sổ có bìa màu xanh – trắng, bên trong ghi các số lô, số đề H bán cho D và T là tài liệu chứng minh tội phạm, cần lưu giữ tại hồ sơ vụ án.

[4] Về án phí: Bị cáo Trần Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn H phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn H 10 (mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 08 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo H cho UBND xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc quản lý, giám sát, giáo dục dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp bị cáo H có thay đổi về nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 6.010.000đ thu giữ của Trần Văn H và Nguyễn Văn D.

Tịch thu tiêu hủy 01 bút bi mực màu đen;

Lưu giữ tại hồ sơ vụ án 01 quyển sổ có bìa màu xanh – trắng, bên trong ghi các số lô, số đề H bán cho D và T.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Văn H phải chịu 200.000đ tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận bản án hoặc niêm yết tại UBND nơi cư trú của người vắng mặt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

355
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2020/HSST ngày 04/09/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:49/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về