Bản án 49/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ông Nguyễn Cao Đăng - Kiểm sát viên Ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 64/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 05 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Hữu T (tên gọi khác: Toàn đ), sinh năm 1990 tại Bình Phước; nơi cư trú ấp 02, xã Tiến H, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đỗ Hữu T, sinh năm 1968 và bà Lê Thị T, sinh năm 1970; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không, Tiền sự: 01 - Ngày 15/11/2016, bị Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước (nay là Thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước) ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 13/QĐ-TA với thời gian 24 tháng. (Bị cáo chấp hành xong ngày 29/8/2018).

Về nhân thân: Ngày 20/6/2014, bị Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước (nay là Thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước) xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại Bản án số 56/2014/HSST ngày 20/6/2014) (bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 21/9/2014 và đóng án phí 200.000 đồng); Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2019 cho đến nay “có mặt”.

Người bị hại: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 2000; nơi cư trú ấp 03, xã Tiến H, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1970; nơi cư trú ấp 03, xã Tiến H, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

Bà Lê Thị T, sinh năm 1970; nơi cư trú ấp 02, xã Tiến H, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17/12/2018, Đỗ Hữu T ngồi uống cà phê với anh Nguyễn Văn D và anh Nguyễn Đ tại ấp 2, xã Tiến H, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Trong lúc uống cà phê thì Toàn hỏi mượn anh D xe môtô biển số 93M1 – 137.11 hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng của anh D đi sửa quần áo tại nội ô thành phố Đồng Xoài, hẹn một lúc sau sẽ về trả, anh D đồng ý giao xe và chìa khóa xe cho T. Trong lúc chờ lấy quần áo, T điều khiển xe 93M1 – 137.11 đến tiệm bắn cá ở địa chỉ số 276 Lê Quý Đ, phường Tân T, thành phố Đồng Xoài do bà Hà Mai D làm chủ để chơi game bắn cá. Khi chơi thua hết tiền đem theo trên người, T nảy sinh ý định cầm cố xe môtô mượn của anh D để lấy tiền chơi game. Lúc này, Toàn đã cầm xe môtô trên cho 01 người đàn ông (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đang cùng chơi lấy 10.000.000 đồng, số tiền này Toàn đã chơi game bắn cá thua hết, sau đó do không có tiền chuộc xe nên Toàn đã bỏ trốn khỏi địa phương.

Ngày 18/12/2018, anh D đã làm đơn tố cáo Toàn đến cơ quan Công an. Ngày 13/02/2019, Đỗ Hữu T đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Kết luận định giá số 13/KLĐG ngày 22/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đồng Xoài định giá 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 93M1-137.11, số máy: 55P1-426324, số khung: 5P10EY426303, đã qua sử dụng, còn hoạt động bình thường, trị giá 20.000.000 đồng.

Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài chưa thu hồi được xe mô tô Yamaha Exciter, biển số 93M1-137.11.

Tại bản cáo trạng số 65/CT-VKS-ĐX ngày 09/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài truy tố bị cáo Đỗ Hữu T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Hữu T mức án từ 15 đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường số tiền 20.000.000 đồng tương ứng với giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt cho người bi hại và bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Bị cáo Đỗ Hữu T tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội bị cáo Đỗ Hữu T khai nhận: Ngày 17/12/2018 sau khi mượn chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 93M1-137.11 của anh Nguyễn Văn D mục đích là đi sửa quần áo, nhưng trong lúc chờ sửa quần áo bị cáo đã đi chơi game và thua hết số tiền mang theo trong túi, bị cáo nảy sinh ý định cầm cố xe của anh D để lấy tiền chơi tiếp, ngay sau đó bị cáo cầm xe cho một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) cũng đang cùng chơi game tại tiệm để lấy số tiền 10.000.000 đồng và tiếp tục chơi đến khi thua hết số tiền này.

[3] Đối chiếu lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận điều tra, bản cáo trạng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa; phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo và Kết luận của Hội đồng định giá đối với xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số 93M1- 137.11 có trị giá 20.000.000 đồng.

[4] Lợi dụng sự quen biết, tin tưởng của anh Nguyễn Văn D giao tài sản cho bị cáo và bị cáo đã chiếm đoạt mang đi cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân, không có khả năng trả lại sau đó bỏ trốn. Hành vi của bị cáo Đỗ Hữu T đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 65/CT-VKS-ĐX ngày 09/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Xét về năng lực hành vi dân sự, Đỗ Hữu T có đủ khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình, bản thân bị cáo biết rõ những việc mình làm là vi phạm pháp luật, mượn tài sản của chính bạn mình sau đó mang cầm cố cho một người không rõ nhân thân lai lịch để lấy tiền tiêu xài. Xét hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất lòng tin giữa con người với nhau. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, ngày 20/6/2014 đã bị Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước (nay là Thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước) xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiếp đến ngày 15/11/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 24 tháng, mới chấp hành xong quyết định này nhưng bị cáo không biết lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường khắc phục thiệt hại cho người bị hại, người bị hại cũng có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đã được Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[8] Đối với việc anh D khai khi cho bị cáo mượn xe mô tô 93M1 – 137.11 thì bên trong cốp xe anh D có để số tiền 7.000.000 đồng. Tuy nhiên, khi cho bị cáo mượn xe thì anh D không nói cho bị cáo biết và bản thân khi mượn xe và cầm xe cho người khác bị cáo không biết trong cốp xe có số tiền trên nên không có cơ sở để xem xét.

Đối với người đàn ông đã cầm xe cho bị cáo với số tiền 10.000.000 đồng, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại anh Nguyễn Văn D đã được bà Lê Thị T là mẹ ruột của bị cáo T bồi thường số tiền 20.000.000 đồng tương ứng với giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt, anh D không có yêu cầu bồi thường gì thêm và bà Tuất cũng không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Hữu T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đỗ Hữu T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 13/02/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Do các bên không ai có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về