Bản án 49/2019/HS-ST ngày 21/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 21/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2019/QĐXXST-HS ngày 11/10/2019 đối với các bị cáo:

1. Dương Ngọc H, sinh năm 1986, nơi sinh tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Thôn 6, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Ngọc  và bà Vũ Thị O; có vợ là chị Trần Thị D và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2015; hiện đang được tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi trú tại thôn 6, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Có mặt.

2. Hoàng Đức T, sinh năm 1979, nơi sinh tỉnh Cao Bằng; nơi cư trú: Thôn 6, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Ngọc P và bà Hoàng Thị Á; chưa có vợ, con; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2019 - Có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn D và bà Phan Thị N;

Cùng địa chỉ: Thôn N, xã Q, thị xã G, tỉnh Đắk Nông (vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Đình D (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Ngọc H biết rẫy của gia đình ông Nguyễn Văn D (Sn 1972), ở thôn N, xã Q, thị xã G, tỉnh Đắk Nông có trồng Bơ và Sầu riêng đang đến mùa thu hoạch. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/8/2019, H từ nhà mình điều khiển xe Môtô BKS 48B1- 225.40 (Xe xủa chi Trần Thị D vợ anh H), chở theo hai làn nhựa để đi đến rẫy của ông D trộm tài sản. Khi đi đến bùng binh Hồ Đại La thuộc tổ 9, phường N, thị xã G, tỉnh Đắk Nông thì gặp Hoàng Đức T điều khiển xe Môtô màu mận chín (không có BKS) đi chiều ngược lại nên H gọi T dừng xe và rủ T vào rẫy của ông D để hái trộm Bơ và Sầu riêng bán lấy tiền tiêu xài thì T đồng ý. Sau đó, cả hai điều khiển xe môtô đến rẫy của ông D. Đến nơi, quan sát xung quanh không có người trông coi nên H nói T đi hái Bơ còn H đi hái Sầu riêng thì T đồng ý. Sau khi hái được 45 kg Bơ và 81 kg Sầu riêng thì cả hai cho Bơ và Sầu riêng vào hai làn nhựa và bao tải đưa lên xe đi về. Khi cả hai đang về thì bị ông D phát hiện và bắt quả tang T cùng vật chứng, còn H chạy thoát. Ngày 16/8/2019, H đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông đầu thú.

Ti kết luận định giá tài sản số 52/KL – HĐĐG ngày 12/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông kết luận: 45kg Bơ và 81 kg Sầu riêng có tổng giá trị là 3.915.000 đồng.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

- 45kg Bơ và 81 kg Sầu riêng.

- 01 xe Mô tô loại Wave, nhãn hiểu Honda, BKS 48B1 - 225.40, màu đen - bạc - trắng, số máy JC52E4458835, số khung RLHJC5219CY596052.

- 01 xe Mô tô không có BKS màu mận cín, số máy VLF1P50FMG340092903, số khung VTKDCG033TP007403.

- 01 (một) làn nhựa màu vàng tím (kích thước 50 x 80cm).

- 01 (một)làn nhựa màu xanh vàng (kích thước 50 x 80cm).

- 01 (một)bao tải màu vàng, có chữ phân bó Trung Lượng (kích thước 63 x 90cm).

- 01 (một) con dao dài 21,1cm, có phần lưỡi bằng kim loại dài 11,1cm, phần cán bằng nhựa màu vàng dài 10cm, mũi dao nhọn.

* Xử lý vật chứng:

Đi với 45kg Bơ và 81 kg Sầu riêng và xe Mô tô BKS 48B1 - 225.40, xét thấy không cần thiết tạm giữ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông ra quyết định xử lý vật chứng số 944 ngày 16/8/2019 và số 945 ngày 19/9/2019 trả lại cho gia đình ông Nguyễn Văn D và chị Trần Thị D là chủ sở hữu hợp pháp.

Đi với 02 làn nhựa, 01 bao tải, 01 con dao (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ) là công cụ thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 xe mô tô màu mận chín không BKS (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ) là phương tiện T dùng để thực hiện hành vi phạm tội, T khai chiếc xe trên mua của một người đàn ông không rõ nhân thân ở xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, khi mua không có giấy tờ mua bán và giấy tờ xe. Ngày 12/8/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông có công văn đề nghị Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đ tra cứu nhưng không xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên cần chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G, tỉnh Đ giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Phần dân sự: Dương Ngọc H và Hoàng Đức T tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình ông Nguyễn Văn D số tiền 5.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền gia đình ông D không yêu cầu gì thêm.

Ti Quyết định số: 02/QĐ-VKS ngày 03/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông truy tố các bị cáo Dương Ngọc H và Hoàng Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự;

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Dương Ngọc H và Hoàng Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; sau khi phân tích hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Dương Ngọc H và Hoàng Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Xử phạt bị cáo Dương Ngọc H từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

- Xử phạt bị cáo Hoàng Đức T 06 tháng tù đến 9 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng.

Về hình phạt bổ sung: Do Dương Ngọc H và Hoàng Đức T hiện tại chưa có tài sản, việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông ra quyết định xử lý vật chứng số 944 ngày 16/8/2019 và số 945 ngày 19/9/2019 trả lại 45kg Bơ và 81 kg Sầu riêng và xe Mô tô BKS 48B1 - 225.40 cho gia đình ông Nguyễn Văn D và chị Trần Thị D là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu tiêu hủy 02 làn nhựa, 01 bao tải, 01 con dao (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ) là công cụ thực hiện hành vi phạm tội.

- Đối với 01 xe mô tô màu mận chín không BKS (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ) là phương tiện Thiện dùng để thực hiện hành vi phạm tội, Thiện khai chiếc xe trên mua của một người đàn ông không rõ nhân thân ở xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, khi mua không có giấy tờ mua bán và giấy tờ xe. Ngày 12/8/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông có công văn đề nghị Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Nông tra cứu nhưng không xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên cần chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G, tỉnh Đắk Nông giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Dương Ngọc H và Hoàng Đức T tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình ông Nguyễn Văn D số tiền 5.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền gia đình ông D không yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.

Ti phiên tòa, bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Ti phiên tòa, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị hại ông Nguyễn Văn D và bà Phan Thị N tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Dương Ngọc H và Hoàng Đức T; Người làm chứng ông Nguyễn Đình D vắng mặt không có lý do. Các bị hại và người làm chứng đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra được lưu trong hồ sơ vụ án, việc vắng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông D, bà N và ông D theo quy định tại khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Dương Ngọc H và Hoàng Đức T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp lưu trong hồ sơ vụ án và qua kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xác định: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/8/2019, Dương Ngọc H điều khiển xe Môtô BKS 48B1-225.40 chở theo hai làn nhựa rủ Hoàng Đức T điều khiển xe Môtô màu mận chín vào rẫy của ông Nguyễn Văn D ở thôn N, xã Q, thị xã G, tỉnh Đắk Nông để hái trộm Bơ và Sầu riêng bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến rẫy, Thiện hái Bơ, Hưng đi hái Sầu riêng. Sau khi hái được 45 kg Bơ và 81 kg Sầu riêng thì cả hai cho Bơ và Sầu riêng vào hai làn nhựa và bao tải đưa lên xe đi về. Khi cả hai đang về thì bị ông D phát hiện và bắt quả tang Thi ện cùng vật chứng, còn H chạy thoát. Ngày 16/8/2019, H đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông đầu thú.

Ti kết luận định giá tài sản số 52/KL – HĐĐG ngày 12/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thị xã G, tỉnh Đắk Nông kết luận: 45kg Bơ và 81 kg Sầu riêng có tổng giá trị là 3.915.000 đồng.

Do vậy, có đủ căn cứ pháp lý để kết luận Dương Ngọc H và Hoàng Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

[3] Hành vi của các bị cáo Dương Ngọc H và Hoàng Đức T là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội không có sự phân công, phân nhiệm hay cảnh giới nên hành vi phạm tội của các bị cáo mang tính chất đồng phạm giản đơn, tính chất, mức độ và vai trò của từng bị cáo là khác nhau nên cần có sự phân hóa để quyết định hình phạt cho tương xứng.

Bị cáo Dương Ngọc H là người chủ động rủ rê bị cáo Hoàng Đức T cùng tham gia thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Sau khi hành vi trộm cắp tài sản bị phát hiện, Dương Ngọc H đã bỏ trốn sau đó ra đầu thú tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông nên cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn so với Hoàng Đức T.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Dương Ngọc H và Hoàng Đức T có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đã bồi thường thiệt hại và bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy, các bị cáo Dương Ngọc H và Hoàng Đức T có đủ điều kiện để áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, mà khoâng nhaát thieát phaûi caùch ly các bò caùo ra khoûi cuộc soáng xaõ hoäi maø cho các bị cáo được tự học tập, cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát, giáo dục của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi các bị cáo đang cư trú và gia đình các bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo và tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

[6] Tại phiên tòa, qua phần tranh luận, xét quan điểm về việc giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, tỉnh Đắk Nông đối với bị cáo là có căn cứ nên chấp nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do hiện tại Dương Ngọc H và Hoàng Đức T hiện tại chưa có tài sản, việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[8] Việc xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông ra quyết định xử lý vật chứng số 944 ngày 16/8/2019 và số 945 ngày 19/9/2019 trả lại 45kg Bơ và 81 kg Sầu riêng xe Mô tô BKS 48B1 - 225.40 trả lại cho gia đình ông Nguyễn Văn D và chị Trần Thị D là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu tiêu hủy 02 làn nhựa, 01 bao tải, 01 con dao (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ) là công cụ thực hiện hành vi phạm tội.

- Đối với 01 xe mô tô màu mận chín không BKS (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ) là phương tiện Thiện dùng để thực hiện hành vi phạm tội nhưng không xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên cần chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G, tỉnh Đắk Nông giải quyết theo quy định của pháp luật.

[9] Về bồi thường thiệt hại: Do bị hại ông Nguyễn Văn D và bà Phan Thị N đã nhận tài sản và bồi thường thiệt hại 5.000.000 đồng, các bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 khoản 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Dương Ngọc H và Hoàng Đức T.

Tuyên bố: Các bị cáo Dương Ngọc H và Hoàng Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Dương Ngọc H 10 (Mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 08 (Tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 21/10/2019).

Xử phạt bị cáo Hoàng Đức T 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (Sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 21/10/2019).

Giao các bị cáo Dương Ngọc H và Hoàng Đức T cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông giám sát, giáo dục. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Áp dụng khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự: Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thục hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

2. Việc xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã G, tỉnh Đắk Nông ra quyết định xử lý vật chứng số 944 ngày 16/8/2019 và số 945 ngày 19/9/2019 trả lại 45kg Bơ và 81 kg Sầu riêng xe Mô tô BKS 48B1 - 225.40 trả lại cho gia đình ông Nguyễn Văn D và chị Trần Thị D là chủ sở hữu hợp pháp.

- Tịch thu tiêu hủy 02 làn nhựa, 01 bao tải, 01 con dao (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ) là công cụ thực hiện hành vi phạm tội.

- Đối với 01 xe mô tô màu mận chín không BKS (có đặc điểm như trong biên bản thu giữ) là phương tiện T dùng để thực hiện hành vi phạm tội nhưng không xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên cần chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G, tỉnh Đắk Nông giải quyết theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc Dương Ngọc H và Hoàng Đức T mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: c bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 21/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về