Bản án 49/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Văn V (tên gọi khác: không), Sinh năm 1990, tại Yên Khánh; nơi ở và nơi ĐKHKTT: Thôn Th, xã Kh, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn K và bà Đinh Thị T; Vợ: Phạm Thị C và có 2 con: lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 09/12/2018 cho đến nay (có mặt).

2. Họ và tên: Phạm Ngọc A (tên gọi khác: B), sinh ngày 05/6/2000, tại Ninh Bình; nơi ở và nơi ĐKNKTT: Thôn Đ, xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn H và bà Đào Thị X; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 09/12/2018 cho đến nay (có mặt).

3. Họ và tên: Phạm Văn L (tên gọi khác: T), sinh năm 1996, tại Yên Khánh; nơi ở và nơi ĐKNKTT: Thôn T, xã Kh, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn B (đã chết) và bà Đặng Thị M - hiện đang chấp hành án tại trại giam Ninh Khánh; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã, bị tạm giữ từ ngày 22/12/2018 đến ngày 25/12/2018 chuyển tạm giam, tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay (có mặt).

4. Họ và tên: Nguyễn Hòa C (tên gọi khác: không), sinh năm 1995, tại Ninh Bình; nơi ở và nơi ĐKNKTT: Thôn Đ, xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn S và bà Phạm Thị K; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 09/12/2018 cho đến nay (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn L: Bà Ngô Thị Lý - Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Bình (có mặt).

Bị hại: Anh Đặng Hùng C, sinh năm 1967; Trú tại: Đường L, phố H, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nhau sau: Bị cáo Phạm Văn V, Phạm Văn L, Đỗ Văn B, Nguyễn Hòa C và Phạm Ngọc A đều là bạn chơi với nhau. Sáng ngày 18/9/2018, Phạm Văn V đi qua vườn Lan của gia đình anh Đặng Hùng C, sinh năm 1967, ở đường L, phố H, phường N, thành phố Ninh Bình, do thấy không có người trông coi, nên V nảy sinh ý định trộm cắp Lan của gia đình anh C. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày 18/9/2018, trong khi Phạm Văn V, Đỗ Văn B, Nguyễn Hòa C, Phạm Ngọc A đang chơi ở nhà Phạm Văn L thì Phạm Văn V rủ mọi người đi trộm cắp các giò Lan của gia đình anh C để bán lấy tiền tiêu sài cá nhân, tất cả đồng ý. Phạm Văn V vào bếp nhà Phạm Văn L lấy 01 kìm cầm tay chiều dài 17 cm, tay cầm mầu đen, da cam và 01 dao dài khoảng 20 cm, đầu vuông, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại mang theo người và bảo Đỗ Văn B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu trắng (không rõ biển kiểm soát) chở Phạm Văn V, Phạm Văn L, Phạm Ngọc A đi trước để lấy các giò Lan, còn Nguyễn Hòa C lấy 01 sọt sắt ở nhà L buộc vào xe mô tô nhãn hiệu Plusux Dream biển kiểm soát 35F4- 6244 đi sau đứng ở khu vực Ga Ninh Bình, thuộc phố Chu Văn An, phường N, thành phố Ninh Bình chờ khi nào V, L, A, B lấy trộm được các giò Lan thì đến chở đi cất giấu. Khi đến vườn Lan của anh Đặng Hùng C, thì V, L, A xuống xe còn B điều khiển xe đi đón C. V trèo tường phía bên trái vườn Lan dùng kìm cắt hàng rào dây thép kích thước (85x40cm) để chui qua rồi đứng lên các thanh kim loại của mái giàn Lan thì V đánh rơi kìm xuống mặt sân trong vườn Lan. V quan sát thấy ở góc trên giàn Lan có một ô trống có một cây cau nên V đã dùng dao chặt tàu cau để tạo một ô trống trên giàn Lan. Sau đó V dùng tay tháo các móc sắt treo giò Lan ra khỏi các thanh sắt trên mái giàn Lan rồi dùng tay kéo các giò Lan lên qua ô trống chỗ cây cau để chuyển cho A đứng ở trên bờ tường. A chuyển các giò Lan cho L đứng dưới đất. V, A, L lấy được 16 giò Lan các loại chuyển ra ngoài, đến giò Lan thứ 17 do to không chuyển qua được ô trống, nên V đã để lại trên giàn và trèo tường xuống thì bị mắc 01 chiếc dép nhựa bên trái loại tổ ong mầu trắng trên mặt tường. Khi C đang đứng ở khu vực phường N thì B đến đón C đi đến khu vực vườn Lan. Đến nơi B, C lấy 10 giò Lan bỏ vào sọt sắt trên xe C. C điều khiển xe chở các giò Lan, còn B điều khiển xe đi theo C để mang các giò Lan đi cất giấu. Một lúc sau V, A, L mỗi người cầm 02 giò Lan đi ra khu vực đối diện nhà văn hóa phố Tr, phường N đợi C và B đến chở nốt các giò Lan còn lại. Khi C và B đi đến khu vực cầu Vượt thuộc phường P, thành phố Ninh Bình do trời mưa nên B bảo C giấu các giò Lan ở gầm cầu vượt rồi cả hai quay lại khu vực vườn Lan. B điều khiển xe đi trước, còn C điều khiển xe đi sau thì gặp Tổ công tác Công an phường N đang tuần tra nên C bỏ chạy. Lúc này A gọi điện cho C bảo đến khu vực nhà văn hóa phố Tr, phường N để chở nốt các giò Lan. C nói với A đang bị Công an đuổi, thấy vậy V, B, A và L vất các giò Lan lại, sau đó B điều khiển xe mô tô chở A còn L, V đi bộ về. Khi C điều khiển xe đi gần đến khu vực nhà văn hóa phố Tr, phường N thì bị Tổ công tác Công an phường N phát hiện đưa về trụ sở Công an phường làm việc. L và V khi đi bộ đến khu vực phường S, thành phố Ninh Bình thì gặp Tổ công tác Công an phường S đang tuần tra nên V bỏ chạy còn L bị bắt giữ.

Cơ quan điều tra đã thu giữ của Nguyễn Hòa C 01 xe mô tô hiệu Plusux biển kiểm soát 35F4- 6244, 01 sọt bằng sắt có kích thước (50x50x60cm); thu giữ trên mặt sân trong vườn Lan 01 kìm cầm tay chiều dài 17 cm, tay cầm mầu đen, da cam, 01 dép nhựa bên trái loại tổ ong mầu trắng trên mặt tường; 01 giò Lan Đai C trên mặt giàn Lan; thu giữ tại khu vực gầm cầu vượt P thuộc phố Phong Đoài, phường P, thành phố Ninh Bình 10 giò Lan, gồm: 03 giò Lan Sơn thủy tiên, 01 giò Lan Phi điệp (loại đột biến) được gắn trên gỗ, 01 giò Lan Phi điệp được trồng trong chậu gốm, 01 giò Lan Hạc vỹ thiên cung, 01 giò Lan Hoàng lạp, 02 giò Lan Tam bảo sắc, 01 giò Lan Đùi gà; thu giữ tại vỉa hè đường Ngô Gia Tự thuộc phố Tr, phường N, thành phố Ninh Bình 06 giò Lan gồm: 01 giò Lan Dendro, 01 giò Lan Kiếm, 02 giò Lan Sóc, 01 giò Lan Cáo, 01 giò Lan Kiều.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 67/KL-HĐ ngày 24/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Ninh Bình kết luận: 01 giò Lan Đai C gồm 10 ngọn được ký trên gỗ lũa trị giá 5.000.000đồng, 03 giò Lan Sơn thủy tiên, mỗi giò trị giá 800.000đồng, tổng 2.400.000đồng, 01 giò Lan Phi điệp (loại đột biến) được gắn trên gỗ trị giá 1.000.000đồng, 01 giò Lan Phi điệp được trồng trong chậu gốm trị giá 250.000đồng, 01 giò Lan Hạc vỹ thiên cung trị giá 1.000.000đồng, 01 giò Lan Hoàng lạp trị giá 1.000.000đồng, 02 giò Lan Tam bảo sắc, mỗi giò trị giá 800.000đồng, tổng là 1.600.000đồng, 01 giò Lan Đùi gà trị giá 800.000đồng, 01 giò Lan Dendro trị giá 300.000đồng, 01 giò Lan Kiếm trị giá 300.000đồng, 02 giò Lan Sóc mỗi giò trị giá 1.000.000đồng, tổng là 2.000.000đồng, 01 giò Lan Cáo trị giá 1.000.000 đồng, 01 giò Lan Kiều trị giá 900.000đồng. Tổng giá trị tài sản là: 17.550.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 52/CT-VKS ngày 04 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình truy tố các bị cáo Phạm Văn V, Phạm Ngọc A, Phạm Văn L và Nguyễn Hòa C ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng, không thay đổi bổ sung gì và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn V, Phạm Văn L, Phạm Ngọc A và Nguyễn Hòa C phạm tội “Trộm cắp tài sản.” Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Phạm Văn L từ 6 đến 9 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 22/12/2018.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Phạm Văn V từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ, khấu trừ 5% đến 10% thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành án để sung quỹ nhà nước. Giao bị cáo Phạm Văn V cho UBND xã Kh, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hòa C từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ, khấu trừ 5% đến 10% thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành án để sung quỹ nhà nước. Giao bị cáo bị cáo Nguyễn Hòa C cho UBND xã N, thành phố Ninh Bình giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc A từ 09 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ, khấu trừ 5% đến 10% thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành án để sung quỹ nhà nước. Giao bị cáo Phạm Ngọc A cho UBND xã N, thành phố Ninh Bình, giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại anh Nguyễn Hùng C đã nhận đầy đủ và không yêu cầu bồi thường gì, nên trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong.

Về hình phạt bổ dung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 sọt bằng sắt có kích thước (50x50x60cm); 01 kìm cầm tay chiều dài 17cm tay cầm màu đen, da cam và 01 chiếc dép nhựa bên trái loại tổ ong màu trắng.

Về án phí: Các bị cáo Phạm Văn V, Phạm Ngọc A và Nguyễn Hòa C các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật; Bị cáo Phạm Văn L được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo Phạm Văn V, Phạm Ngọc A, Phạm Văn L và Nguyễn Hòa C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố là đúng, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn L trình bày: Bị cáo tuổi đời còn trẻ nhận thức hiểu biết pháp luật còn hạn chế, bị bạn bè rủ rê lôi kéo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn bố chết, mẹ đang chấp hành án, gia đình thuộc hộ cận nghèo. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 173 Điều 50, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để khi lượng hình xem xét cân nhắc những tình tiết để giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo L, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và miễn giảm án phí đối với bị cáo L để tạo điều kiện cho bị cáo L được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản sự việc, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản kết luận định giá tài sản... Từ những chứng cứ nêu trên đủ căn cứ kết luận: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 18/09/2018 tại khu vực vườn Lan của anh Đặng Hùng C ở đường L, phố H, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, các bị cáo Phạm Văn V, Phạm Ngọc A, Phạm Văn L và Nguyễn Hòa C đã có hành vi lợi dụng sự sơ hở, lén lút chiếm đoạt 17 giò Lan các loại của anh Đặng Hùng C có tổng giá trị là 17.550.000đồng. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Ninh Bình, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo đều là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nH vẫn cố ý thực hiện. Để đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung thì việc truy tố, xét xử và buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết. Vì vậy cần xét xử các bị cáo với mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy hành vi, tội danh, điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật. Trong vụ án này có 4 bị cáo tham gia nH chỉ mang tính chất đồng phạm giản đơn.

[3] Xét vai trò, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo trong vụ án:

- Bị cáo Phạm Văn V: Là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo khác cùng đi trộm cắp tài sản, bị cáo là người chuẩn bị công cụ phương tiện, là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội lấy các giò Lan đưa ra bên ngoài cho các bị cáo khác. Vì vậy bị cáo giữ vai trò đầu trong vụ án.

- Bị cáo Phạm Ngọc A, Phạm Văn L và Nguyễn Hòa C: Đồng phạm với vai trò giúp sức tích cực, bị cáo L, bị cáo A là những người chuyển các giò Lan ra bên ngoài, còn bị cáo C là người mang các giò Lan trộm cắp được đi cất giấu. Vì vậy các bị cáo giữ vai trò ngang nhau.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Về nhân thân: Các bị cáo C và bị cáo A có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; Đối với bị cáo V và bị cáo L ngày 12/11/2018 Công an thành phố Ninh Bình xử phạt hành chính 1.500.000đồng về hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo L chưa nộp phạt. Sau khi phạm tội bị cáo L đã bỏ trốn khỏi địa phương gây cản trở trong quá trình điều tra, do vậy ngày 17/12/2018 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình ra quyết định truy nã bắt bị cáo L.

[4] Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục các bị cáo răn đe và phòng ngừa chung.

Đi với bị cáo L cần phải xử phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Đối với bị cáo V, A và bị cáo C: Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt, cam kết chấp hành tốt pháp luật, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo V, A và C đồng thời giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi thường trú để giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo là phù hợp với Điều 36 Bộ luật hình sự. Ngoài ra khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng trong thời gian cải tạo đối với các bị cáo V, A và C.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo làm nghề lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 sọt bằng sắt có kích thước (50x50x60cm); 01 kìm cầm tay chiều dài 17cm tay cầm màu đen, da cam, 01 chiếc dép nhựa bên trái loại tổ ong màu trắng, đây là công cụ mà các bị cáo sử dụng vào việc trộm cắp tài sản, không có giá trị do vậy cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 con dao bị cáo V khai trong quá trình bỏ chạy đã đánh rơi mất không rõ ở vị trí nào nên không có căn cứ để truy tìm.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave màu trắng (không rõ biển kiểm soát) Đỗ Văn B điều khiển, các bị cáo khai đó là xe của Đỗ Văn B, hiện nay Đỗ Văn B bỏ trốn, đang truy nã chưa bắt được nên chưa có căn cứ xác minh làm rõ.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Plusux biển kiểm soát 35F4 - 6244, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là của anh Vũ Văn H, sinh năm 1993 trú tại xóm D, xã Kh, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình (là em rể của bị cáo C), C mượn xe để đi lại, anh H không biết việc bị cáo C sử dụng chiếc xe trên đi trộm cắp tài sản. Do vậy cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình đã ra quyết định trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Vũ Văn H là có căn cứ. Anh H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì.

- Về trách nhiệm dân sự:

Đối với 17 giò Lan cơ quan Công an đã thu giữ trả lại cho bị hại anh Nguyễn Hùng C đã nhận lại đầy đủ tài sản và không có yêu cầu bồi thường đề nghị gì, nên phần trách nhiệm dân sự đã được giải quyết xong. Do vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

[7] Trong vụ án này còn có Đỗ Văn B cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã ra quyết định truy nã, hiện nay chưa bắt được Đỗ Văn B. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình đã ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án đối với Đỗ Văn B khi nào bắt được xử lý sau.

[8] Về án phí: Các bị cáo Phạm Văn V, Phạm Ngọc A và Nguyễn Hòa C mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Phạm Văn L thuộc hộ cận nghèo do vậy theo quy định tại điểm đ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bị cáo Phạm Văn L được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Các bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo L; Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Điều 36 Bộ luật hình sự đối với bị cáo V, bị cáo A và bị cáo C.

Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn V, Phạn Ngọc A, Phạm Văn L và Nguyễn Hòa C phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn L (tức T) 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2018.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn V 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ, Giao bị cáo Phạm Văn V cho Ủy ban nhân dân xã Kh, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày UBND xã Kh, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án; Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành án đối với bị cáo Phạm Văn V.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Ngọc A (tức B) 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, Giao bị cáo Phạm Ngọc A cho UBND xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày UBND xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án; Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành án đối với bị cáo Phạm Ngọc A.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hòa C 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ, Giao bị cáo Nguyễn Hòa C cho UBND xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày UBND xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản án; Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng trong thời gian chấp hành án đối với bị cáo Nguyễn Hòa C.

2. Trách nhiệm dân sự: Đã được giải quyết xong nên không xem xét giải quyết.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 sọt bằng sắt có kích thước (50x50x60cm); 01 kìm cầm tay chiều dài 17cm tay cầm màu đen, da cam, 01 chiếc dép nhựa bên trái loại tổ ong màu trắng. (Tình trạng đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/4/2019 giữa Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Phạm Văn V, Phạn Ngọc A và Nguyễn Hòa C mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Văn L.

Án xử sơ thẩm công khai các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 16/5/2019; Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự:“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

355
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về