Bản án 49/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ  

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DK - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, Tòa án nhân dân huyện DK xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2019/HSST-QĐ ngày 23 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Nguyên C - sinh năm 1969 tại Hải Phòng; Trú tại: Số 33, khu phố 3, phường L, Tp. B, Đồng Nai; Nghề nghiệp: lái xe; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn K (1937) và bà Nguyễn Thị L (1938); Có vợ Mai Thị N (1971); Có 02 con (lớn nhất sinh năm 1999 và nhỏ nhất sinh năm 2003); Tiền sự, tiền án: không.

Nhân thân: Bản án số 749/2014/HSST ngày 18/12/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 10 (Mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01(Một) năm 08 (Tám) tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt tạm tạm giam ngày 06/3/2019; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị hại anh Nguyễn Trần Anh L (chết):

1. Bà Trần Thị A - sinh năm 1954 (mẹ đẻ của anh L) Trú tại: Tổ 17, B2, thôn M2, xã L - DK - Khánh Hòa.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bà Lài: Chị Nguyễn Thị Thạch Cẩm - sinh năm 1975. Địa chỉ: thôn Đ1, xã Đ, huyện DK, tỉnh Khánh Hòa. (Văn bản ủy quyền số 11/2019 ngày 21/02/2019).

2. Bà Nguyễn Thị Thạch C - sinh năm 1975 (vợ của anh L)

3. Cháu Nguyễn Quỳnh T - sinh ngày 09/7/2018 (con của anh L)

Đều trú tại: thôn Đ1, xã Đ, huyện DK, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Quỳnh Thư: Chị Nguyễn Thị Thạch Cẩm - sinh năm 1975. Địa chỉ: thôn Đ1, xã Đ, huyện DK, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên tòa.

4. Chị Nguyễn Khánh L - sinh năm 2000 (con của anh L)

5. Cháu Nguyễn Khánh H - sinh ngày 21/5/2007(con của anh L)

Đều trú tại; thôn V, xã S, huyện DK, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Khánh H: Chị Nguyễn Thị Kim L - sinh năm 1975. Địa chỉ: thôn V, xã S, huyện DK, tỉnh Khánh Hòa. Chị L, L có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị hại chị Võ Thị Kim D (chết):

1. Bà Nguyễn Thị Đ - sinh năm 1942 (mẹ ruột chị D) Địa chỉ: thôn P, xã T, huyện DK, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bà Đ: Anh Nguyễn Ngô Anh V - sinh năm 1982. Địa chỉ: 304/21 L, phường P, Tp Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. (Văn bản ủy quyền số 1045/2019 ngày 14/3/2019).

2. Anh Nguyễn Ngô Anh V - sinh năm 1982 (chồng của chị D)

3. Cháu Nguyễn Vũ Tâm A - sinh ngày 05/10/2008 (con ruột chị D)

4. Cháu Nguyễn Vũ Minh K - sinh ngày 27/5/2012(con ruột chị D)

ĐKHKTT: 23A đường B, phường L, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Địa chỉ liên hệ: 304/21 L, phường P, Tp Nha Trang.

Người đại diện theo pháp luật của cháu Nguyễn Vũ Tâm A, Nguyễn Vũ Minh K: Anh Nguyễn Ngô Anh V - sinh năm 1982. Địa chỉ: 304/21 L, phường P, Tp Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên tòa.

* Bị đơn dân sự:

Chị Mai Thị Ng - sinh năm 1971. Địa chỉ: 33, khu phố 3, phường L, Tp. B, Đồng Nai. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Bùi Văn H - sinh năm 1999. Địa chỉ: thôn Đ1, xã Đ, huyện DK, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

Anh Lê Việt D - sinh năm 1980; Có mặt tại phiên tòa.

Anh Nguyễn Đức L - sinh năm 1981; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Nguyên C (có giấy phép lái xe hạng C). Ngày 11/02/2019, C cùng tài xế Lê Việt Cường điều khiển xe ô tô tải 60C-176.77 chở hàng từ Đồng Nai ra Phú Yên. Đến sáng ngày 12/02/2019 khi đi đến thị xã N, C về nhà của D, nghỉ và có uống 03 ly rượu trắng, còn D lái xe đi ra Phú Yên giao hàng rồi về lại Ninh Hòa ghé nhà nghỉ. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, C điều khiển xe ô tô tải 60C-176.77 chở D lưu thông trên đường Quốc Lộ 1A (hướng Bắc - Nam). Khi đến Km 1457 + 350 (thuộc xã T - DK), đây là đoạn đường các loại phương tiện được phép lưu thông hai chiều nhưng không có dải phân cách cứng bằng bê tông ở giữa đường để phân chia hai phần đường cho các phương tiện lưu thông theo hai chiều riêng biệt, C điều khiển xe chạy ở phần đường bên phải theo hướng lưu hành, gần tới ngã tư giữa đường tránh Quốc Lộ 1A với đường G nơi có đèn tín hiệu xanh đỏ, C thấy phía trước xe có nhiều phương tiện xe ô tô đang lưu hành chậm cùng chiều, để vượt các phương tiện phía trước nên C điều khiển xe chạy sang phần đường bên trái (phần đường của các phương tiện lưu thông ngược chiều) thì có xe mô tô BKS 79D1-558.25 do anh Nguyễn Trần Anh L điều khiển đang lưu hành ngược chiều sát lề đường đúng chiều đường đi tới sát trước đầu xe của C, do khoảng cách quá gần, nên góc trước bên trái đầu xe ô tô 60C-176.77 đã tung vào xe mô tô BKS 79D1-558.25 hất xe và anh L vào lề đường. C tiếp tục điều khiển xe chạy tới phần đường bên trái, đã tung trực diện vào xe mô tô 79N2-461.03 do chị Võ Thị Kim D điều khiển, đang lưu hành cùng chiều phía sau xe mô tô của anh L. Xe ô tô 60C-176.77, vẫn tiếp tục chạy tới trên phần đường bên trái đến gần ngã tư nơi có đèn tín hiệu xanh đỏ thì dừng lại trên phần đường bên trái. Hậu quả: anh Nguyễn Trần Anh L, chị Võ Thị Kim D tử vong trên đường đi cấp cứu và 02 xe mô tô biển kiểm soát 79D1-558.25, 79N2-461.03 bị hư hỏng. Sau khi gây ra tai nạn, C rời khỏi hiện trường, đến 21 giờ 15 phút cùng ngày đã đến Công an huyện DK trình báo sự việc.

Ti kết quả xét nghiệm sinh hóa về nồng độ cồn ngày 12/02/2019 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa xác định: Nồng độ cồn Ethanol trong huyết thanh tại thời điểm xét nghiệm của Lê Nguyên C là 50,75mg/dL (hoặc 11.01mmol/L) Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 75/TT-TTPY ngày 14/02/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa kết luận nguyên nhân tử vong của Võ Thị Kim D là đa chấn thương.

Ti bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 76/TT-TTPY ngày 14/02/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa xác định các dấu vết thương tích của anh Nguyễn Trần Anh L: Cung mày trái rách da kích thước 3 x 2cm trên diện bầm tụ máu kích thước 5 x 4cm, xương hộp sọ lún. Bên ngoài vùng xương đòn trái rách da, kích thước 4 x 1cm trên nền xây sát da kích thước 7 x 3cm. Vai trái sây sát da kích thước 9 x 3cm. Bụng, thắt lưng hông trái sây sát da kích thước 18 x 10cm. 1/3 dưới cẳng tay phải sây sát da kích thước 10 x 6cm. 1/3 dưới cẳng tay, mu bàn tay trái sây sát da toàn bộ. Gia đình không đồng ý mổ tử thi nên không kết luận được nguyên nhân tử vong.

Ti bản kết luận định giá tài sản số 30 - 32/KL-HDĐGTS ngày 16/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện DK kết luận: xe mô tô biển kiểm soát 79D1-558.25 bị hư hỏng thiệt hại 34.425.000 đồng (Ba mươi bốn triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng) và xe mô tô biển kiểm soát 79N2-461.03 bị hư hỏng thiệt hại 21.060.000 đồng (Hai mươi mốt triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng).

Ti Cơ quan điều tra Công an huyện DK, Lê Nguyên C đã khai nhận hành vi phạm tội.

Ti bản cáo trạng số 37/CT-VKSDK ngày 19/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện DK đã truy tố bị cáo Lê Nguyên C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b, đ khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự 2015.

Ti phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện DK - tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm điểm b, đ khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo Lê Nguyên C. Đề nghị xử phạt bị cáo C từ 03 (Ba) năm đến 04 (Bốn) năm tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Về trách nhiệm dân sự: đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa đại diện hợp pháp của bị hại D và bị cáo, bồi thường cho những người đại diện hợp pháp của bị hại Võ Thị Kim D (chết) là số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng). Đối với chiếc xe mô tô BKS 79D1-558.25 do anh L điều khiển, cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Bùi Văn H là chủ sở hữu chiếc xe nói trên. Chiếc xe ôtô tải biển kiểm soát 60C-176.77; số máy D4DBEJ580298; số khung RPPGB17BPED002613 nhãn hiệu HUYNDAI do Lê Nguyên C điều khiển; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 010400 ngày 05/1/2015 và một số chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT số 7483080 ngày 02/1/2019 của bà Mai Thị Ng, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Ng là chủ sở hữu chiếc xe nói trên. Anh H và bà Ng không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét. Về vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA - VISION, màu sơn đỏ - đen; số máy JF66E0539515; số khung 5811GY780986; biển số 79N2- 461.03 do chị D điều khiển, anh V xin nhận lại chiếc xe trên, nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho anh Nguyễn Ngô Anh V là người đại diện hợp pháp hợp pháp của bị hại Võ Thị Kim D. Án phí: đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định ngày 12/02/2019, bị cáo Lê Nguyên C có giấy phép lái xe hạng C, khi điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 60C-176.77 có nồng độ cồn Ethanol trong máu là 50,75 mg/100mL, đã điều khiển xe sang phần đường bên trái (phần đường của xe ngược chiều) để vượt các xe phía trước nên đã gây tai nạn cho anh Nguyễn Trần Anh L, chị Võ Thị Kim D làm anh L, chị D tử vong. Chị D do đa chấn thương, còn anh L do gia đình không cho mổ tử thi nên không kết luận được nguyên nhân tử vong. Lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện DK truy tố bị cáo Lê Nguyên C theo tội danh “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm b, đ khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lĩnh vực trật tự an toàn công cộng, xâm phạm đến tính mạng, tài sản của công dân, gây hoang mang lo lắng cho quần chúng nhân dân khi tham gia giao thông. Bị cáo tham gia giao thông đường bộ khi có nồng độ cồn trong máu là 50.75 mg/dL (11.01mmol/L) gây ra cái chết cho anh L, chị D là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 8 Điều 8; khoản 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ. Bản thân bị cáo năm 2014 bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 08 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại anh L, chị Doanh, sau khi gây ra tại nạn bị cáo đã đến trình diện tại cơ quan Công an, đại diện gia đình bị hại L, chị Doanh có đơn xin bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo để bị cáo nhận thấy được C sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về trách n hi ệm dân sự: 5.1 Tại thời điểm anh L chết, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của anh L gồm: Bà Trần Thị L - là mẹ đẻ của anh L; bà Nguyễn Thị Thạch C - là vợ của anh L; cháu Nguyễn Quỳnh T (sinh ngày 09/7/2018); chị Nguyễn Khánh L; cháu Nguyễn Khánh H (sinh ngày 21/5/2007) là con ruột của anh L. Người đại diện hợp pháp của bị hại là chị Nguyễn Thị Thạch C, chị Nguyễn Thị Kim L, chị Nguyễn Khánh L đã nhận số tiền 130.000.000 đồng (Một trăm ba mươi triệu đồng), do gia đình bị cáo và bị đơn dân sự bồi thường và có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại là chị Nguyễn Thị Thạch C, chị Nguyễn Thị Kim L, chị Nguyễn Khánh L không có yêu cầu gì về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5.2 Tại thời điểm chị D chết, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của chị D gồm: Bà Nguyễn Thị Đ - là mẹ ruột chị D; anh Nguyễn Ngô Anh V - là chồng của chị D; cháu Nguyễn Vũ Tâm n (sinh ngày 05/10/2008; cháu Nguyễn Vũ Minh K (sinh ngày 27/5/2012) - là con ruột chị D. Người đại diện hợp pháp của bị hại là anh Nguyễn Ngô Anh V yêu cầu bồi thường số tiền 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) bao gồm các khoản: chi phí mai táng; chu cấp nuôi dưỡng con chưa đủ 18 tuổi (đến đủ 18 tuổi); tổn thất tinh thần cho 04 người; chi phí sửa chữa xe và đã nhận số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) do gia đình bị cáo, bị đơn dân sự bồi thường và có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại là anh Nguyễn Ngô Anh V xác định yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng); bị cáo đồng ý bồi thường số tiền nêu trên và đã nộp số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam huyện DK theo giấy nộp tiền ngày 07/3/2019. Đây là sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên nên Hội đông xét xử công nhận sự thỏa thuận giữa đại diện hợp pháp của bị hại D và bị cáo về trách nhiệm bồi thường dân sự.

- Đối với chiếc xe mô tô BKS 79D1-558.25 do anh L điều khiển. Tại hồ sơ thể hiện cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Bùi Văn H là chủ sở hữu chiếc xe nói trên. Anh H đã nhận số tiền 18.770.000 đồng (Mười tám triệu bảy trăm bảy mươi nghìn đồng), do gia đình bị cáo và bị đơn dân sự bồi thường. Tại phiên tòa, anh H không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với chiếc xe ôtô tải biển kiểm soát 60C-176.77; số máy D4DBEJ580298; số khung RPPGB17BPED002613 nhãn hiệu HUYNDAI do Lê Nguyên C điều khiển; 01 bản C giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 010400 ngày 05/1/2015 và 01 giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT số 7483080 ngày 02/01/2019 của bà Mai Thị Ng. Tại hồ sơ thể hiện cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Ngọc là chủ sở hữu chiếc xe nói trên. Tại phiên tòa, bà Ng không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Sau khi tai nạn xảy ra, gia đình bị cáo C có đến nhà chị D để bồi thường số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) cho gia đình người bị hại nhưng gia đình bị hại không nhận và hiện nay số tiền này đang được gửi giữ tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam huyện DK. Vì vậy, cần tiếp tục tạm giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án.

[7] Vật chứng : Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu sơn đỏ - đen, số máy JF 66E0539515, số khung 5811GY780986, BKS 79N2-461.03 do chị D điều khiển, nên cần trả lại cho anh V là người đại diện của bị hại.

[8] Về án phí: Vì các lẽ trên, Bị cáo phải nộp án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, đ khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo Lê Nguyên C.

Xử phạt: Bị cáo Lê Nguyên C 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn tù tính từ ngày 06/3/2019.

Về trách nhiệm dân sự : Áp dụng các Điều 584, 585, 586, 591 và 601 của Bộ luật dân sự 2015; Áp dụng mục 2 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

- Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa đại diện hợp pháp của bị hại D và bị cáo về trách nhiệm bồi thường dân sự. Buộc bị cáo Lê Nguyên C bồi thường cho những người đại diện hợp pháp của bị hại Võ Thị Kim D (chết) là bà Nguyễn Thị Đ, anh Nguyễn Ngô Anh V, cháu Nguyễn Vũ Tâm A, cháu Nguyễn Vũ Minh K số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) mà Cơ quan Công an huyện DK đã nộp tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam huyện DK theo giấy nộp tiền ngày 07/3/2019, số chứng từ 0000466 để đảm bảo cho việc thi hành án nghĩa vụ bồi thường cho những người đại diện hợp pháp của bị hại Võ Thị Kim D.

Quy định chung:

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành hành án sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Về vật chứng : Áp dụng Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự;

-Trả lại cho anh Nguyễn Ngô Anh V là người đại diện hợp pháp của bị hại Võ Thị Kim D 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA - VISION, màu sơn đỏ - đen; số máy JF66E0539515; số khung 5811GY780986; biển số 79N2-461.03.

(Tình trạng và đặc điểm vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30/7/2019 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện DK và Chi cục thi hành án dân sự huyện DK).

Về án phí: Bị cáo Lê Nguyên C nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ  

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về