Bản án 49/2019/HS-ST ngày 08/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 08/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 43/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

Trần Cao Q, sinh năm 1997 tại Hà Nam; nơi cư trú: thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N và bà Nguyễn Thị A; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/7/2019 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Trần Văn T, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn N, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người làm chứng: Chị Trịnh Thị L; chị Trịnh Thị L1; bà Nguyễn Thị A và ông Trần Văn N. Phiên tòa có mặt: bà A, ông N; vắng mặt: chị L, chị L1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 25/7/2019, Trần Cao Q đến quán Internet H thuộc thôn M, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam để xem phim và vào Facebook. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, Q đi ra ngoài nhìn thấy trước cửa quán Internet có 01 chiếc xe mô tô Exciter, nhãn hiệu Yamaha màu trắng - đen đỏ BKS: 90B2-149.79 là xe của anh Trần Văn T, nên Q nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô trên để làm phương tiện đi lại và khi cần thì bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Q đi ra một quán bán đồ điện gần quán Internet H mua 01 chiếc tua vít có hai đầu vít rồi quay lại ngồi lên xe mô tô vặn phá khóa nhưng không được. Quyền tiếp tục dùng tay tháo cục rơ le điện của hệ thống khóa điện ở trong gầm xe phía trước bỏ vào túi và dùng sợi dây đồng đã chuẩn bị trước đấu điện tại chân rơ le vừa tháo nắp và mở được khóa điện của xe mô tô. Q dắt xe ra đường rồi nổ máy điều khiển xe mô tô về nhà mình cất giấu. Sau khi phát hiện bị mất xe, anh Trần Văn T có đơn trình báo Công an huyện L giải quyết sự việc. Cơ quan CSĐT Công an huyện L đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ hình ảnh video từ camera an ninh của quán Internet H. Quá trình kiểm tra hình ảnh video xác định Trần Cao Q là người thực hiện hành vi lấy trộm chiếc xe mô tô. Ngày 25/7/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện L tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Cao Q tại thôn T, xã N, huyện L. Quá trình khám xét đã thu giữ được chiếc xe mô tô Exciter nhãn hiệu Yamaha, BKS: 90B2-149.79 của anh T tại buồng nhà ở của Trần Cao Q. Ngày 26/7/2019, Q đến Cơ quan CSĐT Công an huyện L đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Cơ quan CSĐT Công an huyện L đã truy tìm được cục rơ le điện của xe mô tô BKS: 90B2-149.79, sợi dây đồng dài khoảng 03cm, đường kính khoảng 0,15 cm được uốn thành hình chữ U tại nơi ở của Trần Cao Q; thu 02 đoạn dây điện cũ vỏ nhựa màu xanh, loại dây đơn bên trong có 01 lõi đồng đường kính khoảng 0,15cm, 01 đoạn dài 20,5 cm và 01 đoạn dài 26,4 cm có một đầu uốn cong gần chân biển quảng cáo của quán Internet H.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 29/KL-ĐGTS ngày 31/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L, kết luận: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter BKS 90B2-149.79 có giá trị: 28.200.000đ (Hai mươi tám triệu hai trăm nghìn đồng).

Công an huyện L đã trả lại anh Trần Văn T 01 xe mô tô Exciter BKS 90B2-149.79 mà Q đã trộm cắp; cục rơ le điện của xe mô tô anh T không có nhu cầu nhận lại và không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKSLN ngày 09/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Trần Cao Q về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Cao Q từ 15 đến 18 tháng tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung và giải quyết về trách nhiệm dân sự do bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập, bị hại không có yêu cầu bồi thường; đồng thời đề nghị hướng xử lý vật chứng, án phí vụ án.

- Bị cáo Trần Cao Q khai nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân đã truy tố và nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác; phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

Do đó đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 25/7/2019 tại quán Internet H thuộc thôn M, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam. Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản, Trần Cao Q đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 chiếc xe mô tô Exciter BKS 90B2-149.79 của anh Trần Văn T, trị giá 28.200.000đ (Hai mươi tám triệu hai trăm nghìn đồng). Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam truy tố bị cáo là đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự địa phương. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Khi quyết định hình phạt cũng xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú; tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, không có công việc ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Công an huyện Lý Nhân đã trả lại anh Trần Văn T 01 chiếc xe mô tô Exciter BKS 90B2-149.79, anh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên không phải giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 cục rơ le có vỏ nhựa màu đen đã cũ; 01 đoạn dây đồng hình chữ U dài khoảng 03 cm; 02 đoạn dây điện cũ vỏ nhựa màu xanh (01 đoạn dài 20,5 cm và 01 đoạn dài 26,4 cm một đầu uốn cong). Các vật chứng đều không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại được quyền kháng cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Trần Cao Q phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Cao Q 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 26/7/2019 2. Về xử lý vật chứng. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 cục rơ le có vỏ nhựa màu đen; 01 đoạn dây đồng hình chữ U dài khoảng 03 cm; 02 đoạn dây điện cũ vỏ nhựa màu xanh (01 đoạn dài 20,5 cm và 01 đoạn dài 26,4 cm một đầu uốn cong).

(Tình trạng số lượng, loại vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra với Chi cục thi hành án dân sự huyện Lý Nhân lập ngày 10/9/2019).

3. Về án phí. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/1016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Cao Q phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 08/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về