Bản án 49/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 49/2019/HS-ST NGÀY 04/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/HSST-QĐ ngày 22 tháng 5 năm 2019, đối với bị cáo sau đây:

Họ và tên: Lò Văn L (tên gọi khác: Không), sinh ngày 10/7/1986; Nơi sinh: Sông Mã - Sơn La. Nơi ở và ĐKHKTT: Bản N, xã N, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng phái, Đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn B (đã chết) và bà Lò Thị T; Có vợ Lò Thị O và có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012. Tiền sự, tiền án: Không.

Nhân thân: Ngày 17/01/2008 bị TAND huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28/01/2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị O, sinh năm 1987, trú tại bản N, xã N, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 50 phút ngày 28/01/2019 tổ công tác Đồn Công an Mường Lầm phối hợp với Công an xã Yên Hưng, Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Tin Tốc, Yên Hưng, Sông Mã phát hiện đối tượng Lò Văn L đang điều khiển xe mô tô có biểu hiện nghi vấn, qua kiểm tra hành chính, Lò Văn L tự giác lấy 01 gói nilon màu hồng, bên trong có chứa chất bột màu trắng ngà và một mảnh viên nén màu hồng (L khai nhận là Heroine và Hồng phiến) giao nộp. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định, ngoài ra còn tạm giữ của L 01 xe mô tô Honda Wave S BKS 26B1-903.60; 01 điện thoại di động và số tiền 300.000 đồng.

Ngày 29/01/2019 tại Phong ky thuât hinh sư Công an tinh Sơn La đã ti ến hành mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định: 01 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,032 gam. Kết quả giám định là loại Methamphetamine và chất bột màu trắng ngà có khối lượng 0,068 gam. Kết quả giám định là Heroine.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Do sử dụng chất ma túy từ năm 2007. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 28/01/2019 L một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S BKS 26B1-903.60 từ nhà đến bản Tin Tốc, xã YH, Sông Mã để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi đến giữa bản Tin Tốc, L vào nhà một người đàn ông dân tộc Mông tên là T, hỏi mua được của T một gói Heroine và 01 mảnh viên Hồng phiến với giá 100.000 đồng. Mua được ma túy, L cất giấu gói ma túy vào trong miếng cao su ốp gương bên trái xe mô tô rồi điều khiển xe đi về. Khi về được khoảng 200m thuộc bản Tin Tốc, Yên Hưng, Sông Mã thì bị tổ công tác Đồn Công an Mường Lầm phối hợp với Công an xã Yên Hưng, Sông Mã làm nhiệm vụ kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án L khai nhận đã mua của người đàn ông dân tộc Mông tên là Thọ tại khu vực bản Tin Tốc, Yên Hưng, Sông Mã vào ngày 28/01/2019. Quá trình điều tra tại bản Tin Tốc, Yên Hưng không có người nào tên là Thọ giống như L miêu tả nên Cơ quan CSĐT không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S BKS 26B1-903.60 có đăng ký xe mang tên Lò Văn L là tài sản của vợ chồng L mua từ năm 2014, khi L mang xe đi mua ma túy chị Oan (vợ của L) không biết.

Do các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số: 47CT-VKSSM, ngày 06 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo Lò Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Lò Văn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt: Lò Văn L từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo nên miễn án phí cho bị cáo.

Vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng đã truy tố và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không có tranh luận gì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ và các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, lời khai của bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tung: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội: Bị cáo Lò Văn L là người có nhận thức, biết được mọi hành vi liên quan đến ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm; nhưng do nghiện chất ma túy ngày 28/01/2019, bị cáo Lò Văn L đi mua và cố ý vận chuyển 0,032 gam Methamphetamine và 0,068 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 18 giờ 00 phút ngày 28/01/2019 của tổ công tác Đồn Công an Mường Lầm và Ban công an xã Yên Hưng tại bản Tin Tốc, xã Yên Hưng đối với Lò Văn L cùng vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu hồng có chứa chất bột màu trằng ngà và 01 mảnh viên nén màu hồng.

Biên bản mở niên phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong vật chứng hồi 10 giờ 00 phút ngày 29/01/2019 và kết luật giám định số 293 ngày 01/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

“- Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là ma túy; Loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,068gam.

- Mẫu gửi giám định ký hiệu L2 là ma túy; Loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,032gam.

- Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của Lò Văn L đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất và mức độ của hành vi phạm tội: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng mặc dù nhận thức được mọi hành vi liên quan đến chất ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Cần xử lý thật nghiêm minh đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu là đối tượng nghiện chất ma túy từ 2007 và đã từng có 01 tiền án (đã được xóa án tích) vào năm 2008 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo không lấy đó làm bài học nay lại phạm tội mới . Do đó cần có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đảm bảo biện pháp răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nhận tội là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản riêng có giá trị, gia đình thuộc hộ nghèo nên không áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về các đối tượng, tình tiết có liên quan:

Đối với người đàn ông dân tộc Mông tên T tại khu vực bản Tin Tốc, xã Yên Hưng, huyện Sông Mã đã bán ma túy cho L ngày 28/01/2019 (theo L khai). Quá trìnhđiều tra, xác minh tại bản Tin Tốc không có người nào tên là Thọ giống như L miêu tả nên Cơ quan CSĐT không có căn cứ để điều tra làm rõ là đúng quy định.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 túi nilon màu trắng, 01 mảnh túi ni lon màu hồng và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu là những vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S BKS 26B1-903.60 có đăng ký xe mang tên Lò Văn L là tài sản chung của vợ chồng L, khi L mang xe đi mua ma túy vợ của L không biết nên cần trả lại cho chị Lò Thị O (vợ bị cáo).

Đối với số tiền 300.000 đồng và 01 chiếc điện thoại thu của bị cáo xét thấy không liên quan đến việc phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo thuộc gia đình hộ nghèo tại phiên tòa bị cáo đề nghị HĐXX xin được miễn án phí nên cần miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn L 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/01/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Vật chứng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 túi nilon màu trắng, 01 mảnh túi ni lon màu hồng và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu( Vật chứng được miên phong theo quy định)

- Trả lại cho bị cáo số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell, màu đen, có số Imei: 81003360033845;

- Trả lại cho chị Lò Thị O 01 chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda loại xe Wave S màu đen – trắng BKS 26B1 – 903.60, xe có đủ 02 gương chiếu hậu, xe cũ đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 14/5/2019 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn nộp án phí hình sự sở thẩm cho bị cáo Lò Văn L.

5. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:49/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về