Bản án 49/2018/DS-ST ngày 10/09/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 49/2018/DS-ST NGÀY 10/09/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 64/2018/TLST-DS ngày 02 tháng 4 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2018/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 33/2018/QĐST-DS ngày 20 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Bích T, sinh năm 1983; cư trú tại: Ấp X, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc V, sinh năm 1990; cư trú tại: Ấp R, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Hiện đang chấp hành án tại Phân trại 01, trại giam C1, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 02/4/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Bích T trình bày:

Ngày 21/12/2015, chị T cho anh Nguyễn Quốc V vay số tiền 50.000.000 đồng, có viết giấy nợ và ký tên, hẹn đến ngày 19/4/2016 sẽ trả lại cho chị. Đến khoảng một tuần sau ngày vay lần thứ nhất, anh V tiếp tục vay chị số tiền 50.000.000 đồng, lần này anh V không viết giấy nhận nợ mới cho chị mà viết thêm vào giấy nợ ngày 21/12/2105, nội dung là cộng thêm 50.000.000 đồng, viết bằng bút mực màu đen. Việc viết giấy nợ lần đầu vào ngày 21/12/2015 có anh Nguyễn Văn T làm chứng, còn lần thứ hai vay 50.000.000 đồng chỉ có chị và anh V biết, ngoài ra không có ai biết. Trước đây trong đơn khởi kiện ngày 02/4/2018 chị yêu cầu anh V trả cho chị số tiền 100.000.000 đồng, nay chị xin rút một phần yêu cầu, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với số 30.000.000 đồng, chị chỉ yêu cầu anh V trả cho chị số tiền 70.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Việc anh V yêu cầu giám định chữ viết và chữ ký trong giấy nợ ghi ngày 21/12/2015 chị không đồng ý, nếu anh V muốn giám định thì anh tự chịu chi phí giám định, chị không chịu chi phí này.

- Tại bản tự khai ngày 27/6/2018, bị đơn anh V trình bày:

Trước đây anh có vay chị T số tiền 50.000.000 đồng với lãi suất 5.000.000 đồng /tháng, có viết giấy nợ do anh và chị T ký tên trong giấy nợ và có anh Nguyễn Văn T ký tên làm chứng. Đến khoảng một tháng sau anh tiếp tục hỏi vay chị T số tiền 50.000.000 đồng nhưng chị T chỉ đưa cho anh số tiền 20.000.000 đồng tại nhà chị T ở Thành phố Hồ Chí Minh, lần này không viết giấy nợ mà chỉ ghi thêm vào giấy nợ cũ là cộng 50.000.000 đồng. Từ lúc vay tiền đến nay anh có trả cho chị T 02 lần tiền lãi, một lần là 5.000.000 đồng và một lần 3.000.000 đồng nhưng không yêu cầu chị T viết biên nhận. Giấy nợ ghi ngày 21/12/2015 không phải chữ ký và chữ viết của anh nên anh yêu cầu giám định chữ ký trong giấy nợ, và chi phí anh yêu cầu bên chị T tạm ứng trước. Nay anh chỉ đồng ý trả cho chị T số tiền 70.000.000 đồng.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục: Trong quá trình thụ lý giải quyết cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; các đương sự tham gia tố tụng trong vụ án đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Bích T, buộc anh V trả cho chị T số tiền 70.000.000 đồng, không tính lãi Về án phí: Anh V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Căn cứ Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết vụ án.

Chị Phạm Bích T có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản với anh Nguyễn Quốc V có nơi cư trú tại Ấp R, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh; căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.

Chị T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, anh V đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; căn cứ khoản 1 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T, anh V.

[2] Về nội dung vụ án: Trong đơn khởi kiện, chị T yêu cầu anh V trả số tiền 100.000.000 đồng, tuy nhiên tại phiên hòa giải ngày 30/7/2018, chị T xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với số tiền 30.000.000 đồng, chỉ yêu cầu anh V trả cho chị số tiền 70.000.000 đồng. Xét thấy việc chị T rút một phần yêu cầu là tự nguyện nên căn cứ Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ một phần yêu cầu của chị T.

Đối với yêu cầu của chị T: Xét thấy tại bản tự khai ghi ngày 27/6/2018 anh V thừa nhận có vay của chị T số tiền 50.000.000 đồng, có viết giấy nợ do anh V và chị T ký tên, sau đó anh V vay tiếp số tiền 50.000.00 đồng, không viết giấy nợ mới mà ghi vào giấy nợ cũ là cộng thêm 50.000.000 đồng. Anh V cho rằng ở lần vay sau, chị T chỉ đưa cho anh số tiền 20.000.000 đồng, nay anh chỉ đồng ý trả cho chị T số tiền 70.000.000 đồng; tuy nhiên anh V không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh. Như vậy lời khai của anh V phù hợp với lời khai của chị T và giấy nợ ghi ngày 21/12/2015; đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh được quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó yêu cầu của chị T có cơ sở chấp nhận.

[3] Anh V cho rằng trong quá trình vay tiền của chị T anh có trả cho chị T 02 lần tiền lãi, tổng cộng 8.000.000 đồng, nhưng anh cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc anh có trả tiền lãi cho chị T nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Ghi nhận chị T không yêu cầu tính lãi.

[4] Anh V yêu cầu giám định chữ ký và chữ viết của anh trong giấy nợ ghi ngày 21/12/2015 vì anh cho rằng không phải chữ của anh, nhưng anh không nộp chi phí giám định nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Anh V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 3.500.000 đồng theo quy định tại Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 227, 228, 244 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 463, 466 và Điều 688 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Bích T đối với anh Nguyễn Quốc V.

Buộc anh Nguyễn Quốc V có nghĩa vụ trả cho chị Phạm Bích T số tiền vốn vay 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng. Ghi nhận chị T không yêu cầu tính lãi.

Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng của chị Phạm Bích T đối với anh Nguyễn Quốc V.

Kể từ ngày chị T có đơn yêu cầu thi hành án nếu anh V không thi hành số tiền nêu trên, thì hàng tháng anh V còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Về án phí: Anh Nguyễn Quốc V phải chịu 3.500.000 (ba triệu năm trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Phạm Bích T không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả cho chị T số tiền 2.500.000 (hai triệu năm trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0018996 ngày 02/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2018/DS-ST ngày 10/09/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:49/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về