Bản án 48/2021/HS-ST ngày 30/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 48/2021/HS-ST NGÀY 30/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Bế Văn T, tên gọi khác: Bế Văn T, sinh ngày 19 tháng 7 năm 1984 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn M, xã V, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bế So L (đã chết) và bà Hoàng Thị C, sinh năm 1944; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21-5-2021 tại Nhà tạm giữ, Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đến nay; có mặt.

2.Nông Văn T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 17 tháng 02 năm 1992 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn M, xã V, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nông Văn S, sinh năm 1952 và bà Hà Thị Đ (đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21-5-2021 tại Nhà tạm giữ, Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lý Văn N, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn M, xã V, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bế Văn T, Nông Văn T quen biết nhau và cùng là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 21-5-2021Nông Văn T, Bế Văn T gặp nhau. Bế Văn T có tiền nên rủ Nông Văn T đi xuống , tỉnh Bắc Giang mua ma túy để cùng nhau sử dụng.Nông Văn T đã mượn xe của Lý Văn N và điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12X1-195.17 chở Bế Văn T đi mua ma túy, khi gần đến ngã tư thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, Nông Văn T vào hiệu thuốc gần đó để mua 02 chiếc xi lanh, sau đó Nông Văn T hỏi một người xe ôm ở gần đó thuê đưa đến nhà người bán ma túy thì được người lái xe ôm đưa đến một nhà ở khu vực thị trấn Kép để mua ma túy. Khi đến nơi Bế Văn T đã đưa choNông Văn T 500.000 đồng mua được 05 đoạn ống hút nhựa đựng ma túy và đưa lại số ma túy mua được cho Bế Văn T cầm, Bế Văn T cất số ma túy vào túi quần trước bên trái rồi Nông Văn T chở Bế Văn T đi theo người xe ôm ra đường Quốc lộ để về nhà, trên đường về Nông Văn T đưa cho Bế Văn T 01 túi nilon đựng chiếc xi lanh vừa mua, Bế Văn T xé túi, lấy vỏ túi nilon đựng 05 đoạn ống hút nhựa ma túy rồi cất vào túi quần bên trái, chiếc xi lanh để túi quần bên phải. Khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày, khi cả hai đi đến tỉnh Lạng Sơn thì bị lực lượng chức năng Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn kiểm tra phát hiện bắt quả tang tạm giữ người và tang vật thu giữ gồm: 01 túi nilon kích thước 7 cm x 4,5 cm bên trong có 05 (năm) đoạn ống hút nhựa màu trắng hàn kín bên trong, đều đựng chất bột màu trắng; 02 xi lanh loại 3ml/cc; 01 chiếc ví vải đã cũ bên trong đựng 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; 01 giấy chứng minh nhân dân; 01 giấy phép lái xe đều mang tên Lý Văn N; 01 xe mô tô biển kiểm soát 12X1-195.17 màu sơn trắng bạc, xe Wave.

Tại Kết luận giám định số: 188/KL-PC09 ngày 23-5-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Chất bột màu trắng có trong 05 đoạn ống hút thu giữ của Bế Văn T đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,274 gam (đã trừ bì).

Tại Bản cáo trạng số: 55/CT-VKS, ngày 17 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà các bị cáo Bế Văn T, Nông Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung đã nêu ở trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Lý Văn N vắng mặt tại phiên tòa, tại Biên bản lấy lời khai trình bày: Khoảng hơn 10 giờ ngày 21-5- 2021 khi đang ngồi chơi ở nhà Bế Văn T thì Nông Văn T hỏi mượn xe mô tô đi một lúc ông đã đồng ý, sau đó ông thấy Nông Văn T điều khiển xe còn Bế Văn T ngồi sau xe và Bế Văn T có nói lại mượn một lúc đi có việc rồi trả. Do cả hai không sử dụng điện thoại nên không gọi được, sau đó ông mới biết Bế Văn T vàNông Văn T bị bắt vì Tàng trữ trái phép chất ma túy lúc này ông mới biết cả hai mượn xe của ông đi mua ma túy, nay xe máy, các giấy tờ và ví vải ông đã được trả lại đầy đủ và ông không có ý kiến gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo Bế Văn T, Nông Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử căn căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; 38; 50; 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Bế Văn T từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; 38; 50; 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáoNông Văn T từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo do các bị là đối tượng sử dụng ma túy, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật chất ma túy Heroine cùng các vỏ bao gói hoàn trả sau giám định có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới là vật chứng Nhà nước cấm lưu hành và 02 chiếc xi lanh loại 3ml/cc là dụng cụ để sử dụng ma túy, liên quan đến hành vi phạm tội đề nghị tịch thu tiêu hủy theo quy định tại các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng các bị cáo nhận thấy lỗi lầm của bản thân, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo sớm cải tạo trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Việc vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Lý Văn N hồ sơ thể hiện họ đã có lời khai, xét thấy việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Lời khai nhận tội của các bị cáo Bế Văn T, Nông Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ xác định: Bế Văn T, Nông Văn T là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 21-5-2021 Bế Văn T rủNông Văn T đi mua ma túy, Nông Văn T mượn xe mô tô chở Bế Văn T đến thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang.Nông Văn T sử dụng số tiền 500.000 đồng do Bế Văn T đưa cho để mua 05 đoạn ống hút nhựa đựng ma túy, sau khi mua đượcNông Văn T đã đưa toàn bộ số ma túy lại cho Bế Văn T cất giữ tại túi quần trước bên trái. Đến 13 giờ 00 phút cùng ngày khi đang trên đường về đến thôn B, xã M, huyện H , tỉnh Lạng Sơn thì bị Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu tại túi quần của Bế Văn T 0,274 gam chất ma túy Heroine. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo Bế Văn T, Nông Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của các bị cáo được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo thực hiện thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Ma túy là chất gây nghiện cao, có tác hại nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gây thiệt hại về kinh tế. Ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn trong xã hội. Các bị cáo là người có đủ độ tuổi, năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma túy và quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất ma túy nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần được xử lý nghiêm trước pháp luật.

[5] Để cá thể hóa hình phạt, có mức án thỏa đáng đối với các bị cáo cần phải xem xét vai trò, tính chất mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Bị cáo Bế Văn T là người có vai trò tích cực đã khởi xướng, rủ rê bị cáoNông Văn T, bỏ tiền ra mua ma túy mục đích để cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Bị cáoNông Văn T khi được Bế Văn T rủ đi mua ma túy về cùng sử dụng bị cáo đã nhận lời, đã mượn xe máy và cùng chở nhau đi mua ma túy, xác định bị cáo có vai trò đồng phạm giúp sức.

[6] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo tuy chưa có tiền án, tiền sự nhưng là người có nhân thân không tốt đều là đối tượng sử dụng ma túy. Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo Bế Văn T có bố đẻ là Bế So L được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất và Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng Ba nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Để giáo dục các bị cáo trở thành người có ích, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ thời gian để các bị cáo cải tạo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, qua đó làm gương cho những người khác có ý định phạm tội tương tự.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền là hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thể hiện: Các bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với tất cả các bị cáo.

[9] Về vật chứng: Xác nhận cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại cho ông Lý Văn N 01 chiếc ví vải đã cũ bên trong đựng 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; 01 giấy chứng minh nhân dân; 01 giấy phép lái xe đều mang tên Lý Văn N; 01 xe mô tô biển kiểm soát 12X1-145.17 màu sơn trắng bạc, xe Wave là phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với 01 (một) phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật chất ma túy Heroine cùng các vỏ bao gói hoàn trả sau giám định, có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới là vật Nhà nước cấm lưu hành và 02 chiếc xi lanh loại 3ml/cc là dụng cụ sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy theo khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[10] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Lý Văn N, qua điều tra xác minh làm rõ việc ông choNông Văn T mượn xe mô tô ông không biết mục đích củaNông Văn T đi đâu làm gì, sau khi hai bị cáo bị bắt ông mới biết họ phạm tội. Xác định ông Lý Văn N không có liên quan đến vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã trả lại cho ông chiếc xe mô tô và các tài sản khác là phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Đối với người bán ma túy và người đàn ông lái xe ôm được thuê dẫn đường cho các bị cáo đến địa điểm mua ma túy, do các bị cáo không biết họ, tên, địa chỉ và biển số xe cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn không có cơ sở điều tra, xác minh làm rõ. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét giải quyết.

[12] Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo và các nội dung khác của vụ án. Xét thấy đề nghị này là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo Bế Văn T, Nông Văn T bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 17, 38, 50; 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Bế Văn T (tức Bế Văn T);

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, 38, 50; 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nông Văn T;

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Bế Văn T (tức Bế Văn T), Nông Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Bế Văn T (tức Bế Văn T) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 21-5- 2021.

2.2. Xử phạt bị cáo Nông Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 21-5-2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư dán kín bên trong đựng mẫu vật chất ma túy Heroine còn lại sau giám định cùng các vỏ bao gói, có chữ ký cùng tên của giám định viên, trợ lý giám định viên và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới; 02 chiếc xi lanh loại 3ml/cc.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18 tháng 8 năm 2021).

4. Về án phí: Các bị cáo Bế Văn T (tức Bế Văn T) vàNông Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2021/HS-ST ngày 30/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về