Bản án 48/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 48/2021/HS-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 19/2021/HSST ngày 28 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 196/2021/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh D, sinh ngày 13/4/1990 tại tỉnh Bình Dương; Hộ khẩu thường trú và nơi thực tế cư trú: 27/3B Khu phố N, phường M, Thành phố Dĩ An, tỉnh Y; Không nghề nghiệp; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Bí và bà Nguyễn Thị L; Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; Tiền án; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 23/10/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1963; Địa chỉ: 27/3B Khu phố Đông An, phường N, Thành phố M, tỉnh Y. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên vào khoảng 23 giờ ngày 23/10/2020, Nguyễn Minh D điều khiển xe mô tô biển số 61F1-2402 đến khu vực đường Đỗ Quang Đẩu, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch) mua 03 đoạn ống nhựa bên trong chứa ma túy với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy Dũng điều khiển xe đến khu vực cầu Calmette, phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1, Dũng lấy một ít ma túy bỏ vào ống kim tiêm chuẩn bị sử dụng thì bị các anh Nguyễn Quang Công, Trần Minh Hưng, Trần Lương Thanh Hậu là Công an và Dân phòng phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1 đi tuần tra phát hiện nên yêu cầu kiểm tra. Lúc này Dùng liền thả ống kim tiêm và 03 đoạn ống nhựa xuống đất, ngồi lên xe mô tô định bỏ chạy thì bị các anh Công, Hưng, Hậu thu giữ vật chứng bắt giữ Dũng đưa về phường Nguyễn Thái Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; sau đó chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 để xử lý. (Bút lục 24, đến 50).

Theo Bản kết luận giám định số 1848/KLGĐ-H ngày 29/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh kết luận như sau: 01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Minh D và hình dấu Công an phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1 bên trong có:

- Bột màu trắng trong 01 ống kim tiêm là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0744 gam loại Heroin;

- Bột màu trắng trong 03 đoạn ống nhựa là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,3407 gam loại Heroin (Bút lục 62).

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1, Nguyễn Minh D khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên, lời khai của Dũng phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. (Bút lục 26 đến 41).

Đối với người thanh niên bán ma túy cho Dũng khai không rõ lai lịch tiếp tục truy xét khi làm rõ đủ cơ sở xử lý sau.

Vật chứng: 01 gói niêm phong bên trong có tổng khối lượng 0,4151 gam loại Heroin.

Thu giữ của Nguyễn Minh D: 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 xe mô tô biển số 61F1-2402, qua xác minh xe do bà Nguyễn Thị L (mẹ ruột của bị can Dũng) đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ngày 23/10/2020, Dũng mượn xe đi công việc, không biết Dũng sử dụng xe này làm phương tiện đi mua ma túy, bà Lan có đơn xin lại chiếc xe làm phương tiện đi lại. (Bút lục 67,68).

Tất cả các vật chứng còn lại hiện đang tạm giữ tại kho vật chứng thuộc Đội CSTHAHS&HTTP Công an Quận 1 theo Phiếu nhập kho vật chứng số 16/21-PNK ngày 06/01/2021. (Bút lục 68).

Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKSQ1 ngày 21 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Minh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, nêu ý kiến kết luận như sau:

+ Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Dũng như nội dung bản cáo trạng. Việc xét hỏi tại phiên tòa đối với bị cáo đã đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

+ Đề nghị áp dụng điểm c Khoản 1, Khoản 5 Điều 249, điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt Nguyễn Minh D từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù và áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng nộp sung công quỹ nhà nước. Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng, không bào chữa, không tranh luận. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sửa chữa sai lầm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo Nguyễn Minh D tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu và chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận giám định số 1848/KLGĐ – H ngày 29/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 23 giờ ngày 23/10/2020, tại Cầu Calmette, phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1, Nguyễn Minh D có hành vi cất giữ 0,4151 gam loại Heroin với mục đích sử dụng cho bản thân, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự nên cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương và tiếp tay cho những phần tử xấu duy trì tệ nạn ma túy. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, phạm tội lần đầu do đó phần lượng hình có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội và tạo cơ hội cho bị cáo để sửa chữa sai lầm.

[4] Áp dụng hình phạt bổ sung, phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng để sung quỹ nhà nước.

[5] Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, khi nào đủ cơ sở xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng thu giữ gồm 01 điện thoại di động hiệu Nokia của bị cáo và 01 xe mô tô biển số 61F1-2402, qua xác minh xe do bà Nguyễn Thị L là mẹ của bị cáo đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử có cơ sở xác định các vật chứng trên không liên quan đến vụ án nên trả lại 01 điện thoại di động cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo khả năng thi hành án án. Đối với 01 xe mô tô biển số 61F1-2402, trả lại cho chủ sở hữu bà Nguyễn Thị L. Đối với số ma tuý còn lại sau giám định, tịch thu tiêu huỷ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm c Khoản 1, Khoản 5 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt Nguyễn Minh D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/10/2020, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Thời hạn tạm giam là 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án ngày 02/3/2021.

Phạt tiền bị cáo Nguyễn Minh D số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

- Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong còn lại sau giám định có các chữ ký tên đại uý Huỳnh Thanh Thảo, Vũ Thị Ánh Tuyết ghi số vụ 1848/20; Trả lại cho bà Nguyễn Thị L 01 xe mô tô biển số 61F1-2402, số khung C100M0292924, số máy C100ME0292924; Trả lại cho bị cáo Dũng 01 điện thoại di dộng hiệu Nokia, số Imei 356885/05/234287/8 nhưng tạm giữ để đảm bảo khả năng thi hành án. (theo Phiếu nhập kho vật chứng số 16/21-PNK ngày 06/01/2021 của Công an Quận 1)

- Căn cứ vào Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

- Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về