Bản án 48/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 48/2021/HS-PT NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 245/2020/TLPT-HS ngày 01 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn N do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2020/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

* Bị cáo bị kháng nghị:

Nguyễn Văn N, sinh năm 1970 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: thôn RChai 2, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: lóp 7/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn Thìn (đã chết) và bà Đỗ Thị Vui (đã chết); vợ Huỳnh Thị Nh, sinh năm 1971 và có 4 người con, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: không; (có mặt) Nhân thân: Bản án số 2916/HSPT ngày 22/12/2004 bị Tòa án phúc thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiến phương tiện giao thông đường bộ”.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 16/10/2019, hiện đang tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Lâm Đồng, (có mặt).

- Người bào chữa: Ông Nguyễn Phương Đại Ngh - Văn phòng luật sư Nguyễn Phương Đại Nghĩa thuộc Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng, (có mặt)

 - Bị hại: Bà Quàng Thị Ngọc L, sinh năm 1975; nơi cư trú: tố 19, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Huỳnh Thị Nh; sinh năm 1971; nơi cư trú: thôn Rchai 2, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát và nội dung bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 29/11/2017 vợ chồng Nguyễn Văn N và Huỳnh Thị Nh vay của Lê Thị Thanh T trú tại thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Đơn Dương 01 tỷ đồng đê sử dụng cho gia đình và cho Phan Thị Kim C vay lại 790.000.000đ với lãi suât cao hơn hưởng chênh lệch. Ngoài ra, Nguyễn Văn N, Huỳnh Thị Nh còn vay của Ngân hàng Đông Á chi nhánh Lâm Đồng 01 tỷ đồng, thời hạn vay 05 năm.

Do đã quá thời hạn và không có tiền để trả nợ cho Lê Thị Thanh T nên ngày 04/02/2018, Huỳnh Thị Nh gọi điện thoại cho Quàng Thị Ngọc L, trú tại thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng nói với L là vợ chồng Nh đang vay tiền tại Ngân hàng Đông Á, thời hạn vay là 05 năm, nay muốn vay của L số tiền là 01 tỷ đồng đế thanh toán hợp đồng này, làm lại họp đồng mới vay với thời hạn là 01 năm và vay thêm tiền; L tưởng thật nên đồng ý và yêu cầu ngày 05/02/2018 vợ chồng Nguyễn Văn N, Huỳnh Thị Nh mang các giấy tờ liên quan ra thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng để L xem. Sáng ngày 05/02/2018, tại quán cà phê ở thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, vợ chồng Nguyễn Văn N và Huỳnh Thị Nh trình bày với L mục đích vay là đáo hạn ngân hàng và đưa cho L xem một họp đồng tín dụng trung hạn của Ngân hàng Đông Á, số họp đồng N0202/1217, 02 chứng minh nhân dân của Nguyễn Văn N và Huỳnh Thị Nh. Sau khi xem các giấy tờ trên L đồng ý cho vợ chồng Nguyễn Văn N và Huỳnh Thị Nh vay số tiền là 01 tỷ đồng đe thực hiện việc đáo hạn ngân hàng. Tại đây vợ chồng Nguyễn Văn N và Huỳnh Thị Nh viết 01 giấy vay tiền với nội dung: Có vay của bà Quàng Thị Ngọc L số tiền 01 tỷ đồng đế đáo hạn ngân hàng và khi ngân hàng giải ngân cho vay lại thì sẽ hoàn trả đầy đủ số tiền nói trên. Sau khi Năm, Nh viết giấy vay tiền, L đã cầm toàn bộ các giấy tờ mà vợ ^ chồng Nguyễn Văn N đưa lên Ngân hàng Đông Á huyện Đức Trọng và nộp 01 tỷ đồng vào tài khoản của Nguyễn Văn N. Sau khi Quàng Thị Ngọc L chuyến số tiền 01 tỷ đồng vào tài khoản của Nguyễn Văn N thì ngay trong chiều ngày 05/02/2018 vợ chồng Nguyễn Văn N và Huỳnh Thị Nh từ Đức Trọng lên Ngân hàng Đồng Á tại thành phố Đà Lạt rút toàn bộ số tiền này mang về trả cho Lê Thị Thanh T mà không thực hiện việc đáo hạn ngân hàng như đã cam kết.

Quá trình điều tra, lấy lời khai bị hại Quàng Thị Ngọc L khai: số tiền trên bà L dùng tài sản là nhà đất của mình để thế chấp ngân hàng vay đế đưa cho vợ chồng Năm, Nh vay nên hàng tháng phải trả lãi ngân hàng, vợ chồng Nguyễn Văn N có trả cho L số tiền 64.154.000đ là tiền lãi suất ngân hàng, không phải là tiền gốc.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2020/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã quyết định:

Căn cứ theo điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s, x khoản 1 Điều 51 ; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/10/2019.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 18/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng đề nghị Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh huỷ án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo trình bày: Thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm của mình và ăn năn hối cải. Sau khi Quàng Thị Ngọc L chuyến số tiền 01 tỷ đồng vào tài khoản của Nguyễn Văn N thì ngay trong chiều ngày 05/02/2018 bị cáo Nguyễn Văn N rút toàn bộ số tiền này mang về trả cho Lê Thị Thanh T mà không thực hiện việc đáo hạn ngân hàng như đã cam kết.

Bà Huỳnh Thị Nh: Thừa nhận có gọi điện thoại cho bà L để vay tiền và dùng số tiền để trả nợ cho bà T.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội. Về tội danh thì luật sư thống nhất với qua điểm của tòa án cấp sơ thẩm cũng như đại diện Viện kiểm sat. Tuy nhiên, theo hồ sơ vụ án thì bà C là người thụ hưởng số tiền chiếm đoạt của bà L. Cấp sơ thẩm chưa tiến hành đối chất giữa bị cáo và những người liên quan để làm rõ vai trò của bà C, bà T. Trong trường hợp cấp phúc thẩm hủy án theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thì đề nghị cơ quan điều tra làm rõ những vấn đề này.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: giữ nguyên kháng nghị:

Theo hồ sơ vụ án thể hiện, bị cáo Nguyễn Văn N cùng vợ là Huỳnh Thị Nh vay tiền của người bị hại, sau khi người bị hại chuyển số tiền 1 tỷ vào tài khoản của bị cáo thì hai vợ chồng cùng đi rút tiền đem trả nợ cho bà Lê Thị Thanh T mà không thực hiện việc đáo hạn như cam kết. Hồ sơ thể hiện hai vợ chồng đồng thuận ngay từ đâu trong việc vay tiền và sử dụng tiền không đúng mục đích. Như vậy có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội. Đề nghị hủy bản án sơ thẩm số 13/2020/HS-ST để điều tra, xét xử lại theo đúng quy định pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của kiểm sát viên, luật sư bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tố tụng: kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh làm trong hạn luật định, được Hội đồng phúc thẩm xem xét giải quyết theo thủ tục xét xử phúc thẩm.

[2]: Nội dung: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình như bản án sơ thẩm đã mô tả.

Theo hồ sơ vụ án: tại các bản tự khai, biên bản phiên tòa sơ thẩm, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Huỳnh Thị Nh, bị cáo Nguyễn Văn N và người bị hại Quàng Thị Ngọc L đều khai nhận, Huỳnh Thị Nh là người gọi điện thoại, đề nghị vay tiền để đáo hạn hợp đồng tín dụng trung hạn đối với ngân hàng TMCP Đông Á, Nh cùng ký giấy vay nợ với bà L, cùng với Nguyễn Văn N đưa các giấy tờ vay vốn để bà L tin tưởng, cho vay.

Theo lời khai của bà Lê Thị Thanh T (BL 167) thì ngày 29/11/2017 Năm, Nh vay của bà T 1 tỷ, ngày 05/02/2018 Năm trả cho bà T 540.000.000 đồng, còn nợ lại 460.000.000 đồng, hai bên lập văn bản thỏa thuận hủy hợp đồng vay tiền ngay 29/11/2017, lập hợp đồng vay mới với số tiền vay 460.000.000 đồng. Lời khai của bà T phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ (BL 274-284). Như vậy có dấu hiệu Huỳnh Thị Nh cùng Nguyễn Văn N đã cùng thực hiện đưa các thông tin gian dối để vay tiền bà L trả nợ cho khoản nợ chung hai vợ chồng vay của bà T.

Như vậy có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy có căn cứ để chấp nhận kháng nghị, hủy bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 13/2020/HSST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng để điều tra lại vụ án theo thủ tục chung.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn N theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử cho đến khi Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng thụ lý lại hồ sơ vụ án.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:48/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về