Bản án 48/2020/HS-ST ngày 21/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ - TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 48/2020/HS-ST NGÀY 21/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 21 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang, Tòa án xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:50/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:160/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

N H T, sinh năm 1991; Nơi cư trú: khóm Châu Long 02, phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn THải (chết) và bà Nguyễn Kim Phụng, sinh năm 1957; vợ: Nguyễn Thị Thế Ngọc, sinh năm 1994, có 01 con chung sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: chưa; nhân thân: bình thường. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2020 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Đỗ Lê Minh Khoa, sinh năm 1980;

Cư trú: Khóm Vĩnh Tây, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, An Giang. Lê Thị Khá (Giang), sinh năm 2003;

Cư trú: ấp Vĩnh Nghĩa, xã Vĩnh Trường, huyện An Phú, An Giang.

Lê Văn Bệ, sinh năm 1950;

Cư trú: ấp Vĩnh Nghĩa, xã Vĩnh Trường, huyện An Phú, An Giang.

- Người làm chứng: Phan TNam,

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 24/7/2020, Công an huyện An Phú tiến hành tuần tra đến khu vực ấp An Thạnh, thị trấn An Phú, huyện An Phú, tỉnh An Giang thì phát hiện Lê Thị Khá (Giang) điều khiển xe môtô biển kiểm soát 37P9 - 9543 chở bị cáo N H Tvà Đỗ Lê Minh Khoa có biểu hiện nghi vấn liền yêu cầu dừng phương tiện để kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi quần trước bên phải mà bà Tđang mặc có 01 bọc nylon trong suốt được hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy đá). Nên, lực lượng tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.

Quá trình điều tra xác định: Chiều 24/7/2020, N H Tđến tiệm game Thiên Thiên Long (thuộc phường Châu Phú B, thành phố Châu Đốc) để chơi game thì gặp Đỗ Lê Minh Khoa và cả hai rủ nhau sử dụng ma túy. Tiếp đó Tliên hệ mua ma túy của Nhã (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể), giao nhận ma túy ngay tại tiệm game Thiên Thiên Long.

Mua ma túy xong, Khoa điều khiển xe môtô 37P9 - 9543 chở Tđi từ thành phố Châu Đốc đến đón bạn gái của Khoa là Lê Thị Khá (Giang) tại khu vực bến đò ông Bờ (ấp Hà Bao 1, xã Đa Phước, huyện An Phú) rồi cả ba cùng đến thuê phòng tại nhà trọ Đăng Khoa (thuộc ấp An T, thị trấn An Phú, huyện An Phú) để sử dụng ma túy.

Sau khi sử dụng xong, Tlấy phần ma túy còn lại cất giấu vào vào túi quần đang mặc. Tiếp đó Khá điều khiển xe môtô 37P9 - 9543 chở Tvà Khoa đến khu vực ấp An Thạnh, thị trấn An Phú, huyện An Phú thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Căn cứ Kết luận giám định số 176/KLGT-PC09(MT) ngày 31/07/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang xác định: Mẫu gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,1931 gam.

Ngày 03/08/2020, N H Tbị khởi tố điều tra.

Vật chứng vụ án: 01 (một) phong bì được niêm phong có đóng dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện An Phú và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng Khoa, Lê Thị Diễm. Bên trong có mẫu vật còn lại sau giám định, có khối lượng 0,1532gam, loại Methamphetamine.

Lời khai của người chứng kiến, người liên quan: các ông, bà Phan Văn Nam, Đỗ Lê Minh Khoa, Lê Thị Khá (Giang) trình bày phù hợp với nội dung vụ án.

Cáo trạng số 49/CT-VKSAP ngày 30 tháng 9 năm 2020 truy tố bị cáo N H Tvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo biết rõ việc sử dụng ma túy, tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do bản thân bị nghiện nên vẫn mua để sử dụng.

Bị cáo không có ý kiến gì về kết quả giám định khối lượng chất ma túy mà kết luận đã nêu.

Lời khai của những người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo N H Tphạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo N H T từ 01năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng đề nghị áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong có đóng dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện An Phú và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng Khoa, Lê Thị Diễm. Bên trong có mẫu vật còn lại sau giám định, có khối lượng 0,1532gam, loại Methamphetamine.

Viện kiểm sát Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Người làm chứng trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng họ đã có lời khai tại Cơ quan điều tra được thể hiện trong hồ sơ vụ án. Xét việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với những người vắng mặt là phù hợp quy định tại Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo đứng trước phiên tòa hôm nay là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết được việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được sử dụng ma túy là con đường dẫn đến cái chết, bị cáo tàng trữ trái phép để sử dụng với khối lượng 0,1931 gam (không phẩy một chín ba một gam) ma túy là methamphetamine, đã cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà Nước về ma tuý, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn huyện biên giới.

Nhà nước nghiêm cấm bất kỳ ai có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mọi người, mọi gia đình hãy nói không với ma túy. Ma túy đã làm cho bao gia đình đổ vỡ, người sử dụng ma túy không còn sức khỏe để lao động, không đủ nhận thức và khi lên cơn nghiện có thể làm bất cứ việc gì để thỏa mãn cơn nghiện. Nhà trường và các bậc cha, mẹ, phải biết giáo dục và định hướng để con em mình biết mà tránh xa ma túy, những ai có ý định tàng trữ trái phép chất ma túy thì kiên quyết từ bỏ, ai còn liên quan đến ma túy thì cũng sẽ bị pháp luật xử lý.

[4] Bị cáo là người biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bởi Methamphetamine (hàng đá) thực chất đây là thuốc gây nghiện thuộc loại nguy hiểm, khi thâm nhập vào cơ thể sẽ gây kích thích mạnh, làm cho người nghiện bị giảm sút về tinh thần và khi lên cơn nghiện dễ có hành động phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phá hoại việc tập trung quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng, chống ma túy. Xét thấy, cần có mức án nghiêm mới có đủ thời gian cải tạo giáo dục bị cáo nhằm phát huy tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Xét về nhân thân, mức hình phạt áp dụng: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, mới phạm tội lần đầu, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi của mình, hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 để quyết định hình phạt với bị cáo.

Từ những phân tích về nhân nhân như trên, xem xét đề nghị của Viện kiểm sát, nhận thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù là phù hợp đối với bị cáo tuy nhiên cần phải có thời gian chấp hành hình phạt cao hơn thì mới có đủ thời gian bị cáo cai nghiện và trở về với gia đình, Hội đồng xét xử sẽ xem xét quyết định.

[6] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng: Chấp nhận theo đề nghị của Viện kiểm sát. [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 46, Điều 47; của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Căn cứ Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo N H Tphạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo N H T02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 24/7/2020.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong có đóng dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện An Phú và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng Khoa, Lê Thị Diễm. Bên trong có mẫu vật còn lại sau giám định, có khối lượng 0,1532gam, loại Methamphetamine. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện An Phú).

Về án phí: Buộc bị cáo N H Tphải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Thời hạn kháng cáo của bị cáo, của đương sự có mặt hoặc đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi tuyên án là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/10/2020). Đối với đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HS-ST ngày 21/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về