Bản án 48/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM P, TỈNH QUẢNG N

BẢN ÁN 48/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2020/QĐXXST-HS ngày 10/3/2020; các thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 10/2020/TB-TA ngày 24/3/2020, số: 18/2020/TB- TA ngày 03/4/2020 và số: 24/2020/TB- TA ngày 16/4/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân K, tên gọi khác: Không; sinh ngày 22/10/1992 tại thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 3, khu Dốc Th, phường Cẩm T, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N; nghề nghiệp: Công nhân – Công ty cổ phần than Đèo Nai; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: V N; con ông: Nguyễn Thanh H và con bà Phạm Thị Mai H; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt quả tang ngày 09/12/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cẩm P, có mặt.

- Người làm chứng: Anh Bùi Văn C, sinh năm 1982; nơi ĐKNKTT: Tổ 3, khu 6A, phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, vắng mặt không có lý do.

- Người chứng kiến:

1. Bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1967; trú tại: Tổ 112, khu 8B, phường Cẩm P, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, vắng mặt không có lý do.

2. Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1962; trú tại: Tổ 19, khu 2A, phường Cẩm P, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 45 phút ngày 09/12/2019, tại quán karaoke Anh Đức thuộc khu vực tổ 113, khu 8B, phường Cẩm P, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, Công an thành phố Cẩm P bắt quả tang Nguyễn Xuân K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của Kiên: 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng, 01 gói giấy bên trong có 05 viên nén màu xanh không rõ hình dạng kích thước, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wiko, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel và số tiền 270.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số: 962/GĐMT ngày 16/12/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng N, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon và 05 viên nén màu xanh không rõ hình dạng kích thước trong 01 gói giấy thu giữ của Nguyễn Xuân K là ma túy, loại Ketamin và MDMA, khối lượng lần lượt là 0,39 gam và 2,427 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Xuân K khai: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 09/12/2019, Th đưa cho bị cáo 4.000.000 đồng để mua ma túy thuốc lắc và ma túy ke để bị cáo, V, Th, N và H cùng sử dụng. Khi đến quán karaoke Anh Đức, bị cáo bảo V, Th, N và H lên phòng hát trước còn bị cáo điện thoại cho S hỏi mua 05 viên ma túy thuốc lắc và 1.000.000 đồng ma túy ke. S đồng ý và bảo bị cáo đến quán bia V Hà đón S. Bị cáo thuê xe taxi của anh Bùi Văn C ra quán bia V, H đón S. S lên xe ngồi cạnh bị cáo ở hàng ghế sau và bảo anh C chở về khu vực cuối đường Thị Đội, phường Cẩm B. Trên đường đi, bị cáo đưa cho S 3.500.000 đồng. Khi đến cuối đường Thị Đội, S đi đâu đó một lúc sau quay lại. Trên đường chở S về quán bia V Hà thì S đưa cho bị cáo 01 giói giấy chứa 05 viên ma túy thuốc lắc và 01 túi ma túy ke.

Sau khi đưa S về quán bia V Hà, bị cáo quay lại quán karaoke Anh Đ, khi đến cửa quán thì bị Công an bắt quả tang và thu giữ vật chứng như trên. Ngoài ra bị cáo còn khai: Số tiền 270.000 đồng, công an thu giữ của bị cáo là số tiền thừa trong số tiền 4.000.000 đồng Th đưa cho bị cáo: mua ma túy 3.500.000 đồng, trả tiền taxi hết 230.000 đồng. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan.

Người làm chứng anh Bùi Văn C có lời khai tại cơ quan điều tra phù hợp về việc Nguyễn Xuân K thuê xe của anh nhưng chỉ đến khi Công an kiểm tra bắt giữ Nguyễn Xuân K thì anh mới biết việc Nguyễn Xuân K thuê xe taxi của anh để đi mua ma túy.

Người chứng kiến bà Nguyễn Thị Thanh H và ông Nguyễn Thanh T có lời khai tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của nhau, thể hiện việc bà Nguyễn Thị Thanh H và ông Nguyễn Thanh T là người đã được chứng kiến Công an thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N kiểm tra, thu giữ vật chứng đối với Nguyễn Xuân K đúng như bị cáo Nguyễn Xuân K đã khai như nêu trên.

Bản cáo trạng số: 31/CT-VKS - CP ngày 21/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P truy tố bị cáo Nguyễn Xuân K về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Xuân K về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: Nguyễn Xuân K từ 24 tháng đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt quả tang 09/12/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Căn cứ: Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 và điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì còn nguyên niêm phong số: 926/GĐMT.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen và số tiền 270.000 đồng.

Trả lại bị cáo Nguyễn Xuân K 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Wiko màu đen.

Tại phần tranh luận, bị cáo Nguyễn Xuân K không tranh luận vấn đề gì với quan điểm luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P. Bị cáo Nguyễn Xuân K thấy ân hận với hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo cải tạo tốt, thành người có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân K, người làm chứng anh Bùi Văn C và những người chứng kiến bà Nguyễn Thị Thanh H và ông Nguyễn Thanh T, đều không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Đối với người làm chứng anh Bùi Văn C và những người chứng kiến bà Nguyễn Thị Thanh H và ông Nguyễn Thanh T, đều đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy quá trình điều tra họ đã có lời khai lưu tại hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 293, Điều 296 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vấn tiến hành xét xử, chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của họ tại phiên tòa.

[3]Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Xuân K: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Xuân K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng anh Bùi Văn C; của những người chứng kiến bà Nguyễn Thị Thanh H và ông Nguyễn Thanh T và còn phù hợp với các chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm P lập hồi 20 giờ ngày 09/12/2019 (bút lục 27, 28); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ vào hồi 21 giờ 05 phút và 21 giờ 45 phút, ngày 09/12/2019 (bút lục 29, 31); bản kết luận giám định số: 962/GĐMT ngày 16/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng N (bút lục 35); biên bản kiểm tra điện thoại thu giữ của Nguyễn Xuân K vào hồi 21 giờ 25 phút ngày 09/12/2019 (bút lục 30); bản ảnh vật chứng (bút lục 32) cùng với các tài liệu khác cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 09/12/2019, tại quán karaoke Anh Đức thuộc khu vực tổ 113, khu 8B, phường Cẩm P, thành phố Cẩm P, Nguyễn Xuân K có hành vi tàng trữ trái 2,427 gam ma túy MDMA và 0,39 gam ma túy Ketamine, mục đích để sử dụng, thì bị Công an bắt quả tang. Hành vi của Nguyễn Xuân K đã phạm vào tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P truy tố đối với bị cáo Nguyễn Xuân K là có căn cứ nên chấp nhận toàn bộ lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo Nguyễn Xuân K.

[4]Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Xuân K đã vi phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Tệ nạn mua bán và sử dụng ma túy hiện nay vẫn đang có chiều hướng gia tăng với nhiều hình thức;

thủ đoạn rất tinh vi, nguy hiểm trong khi Nhà nước ta đã và đang đề ra nhiều giải pháp, mở rất nhiều đợt tấn công truy quét và xử lý rất nghiêm khắc đối với tội phạm về ma túy; hành vi mua bán ma tuý của bị cáo đã tiếp tay cho các đối tượng buôn bán ma tuý lớn hoạt động và còn là nguyên nhân phát sinh ra nhiều loại tội phạm hình sự nguy hiểm khác. Bị cáo Nguyễn Xuân K là người đã trưởng thành, có việc làm ổn định tại Công ty cổ phần than Đèo Nai, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng do ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo kém, sử dụng ma túy từ năm 2013, đã bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật mua ma túy để cùng bạn bè sử dụng như bị cáo khai nêu trên. Việc bị cáo bị phát hiện bắt quả tang là ngoài ý muốn của bị cáo nên cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm trước pháp luật.

[5]Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Xuân K thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Nhưng dù có xem xét đến đâu thì việc bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo giáo dục bị cáo và góp phần phòng chống tội phạm nói chung.

[6]Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Xuân K là người sử dụng ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]Về vật chứng của vụ án: Quá trình kiểm tra bắt quả tang đối với Nguyễn Xuân K, đã thu giữ số vật chứng như nêu trên. Đối với số ma tuý gửi giám định còn hoàn lại 0,34 gam Ketamine và 1,44 gam MDMA đựng trong phong bì niêm phong số: 962/GĐMT, đây là vật cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel và số tiền 270.000 đồng, là tài sản và tiền liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên tuyên tịch thu vào ngân sách nhà nước; đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Wiko là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên tuyên trả lại cho bị cáo.

[8]Đối với:

- Người thanh niên tên Th theo bị cáo Nguyễn Xuân K khai là người đưa tiền cho bị cáo đi mua ma túy; người thanh niên tên S theo bị cáo Nguyễn Xuân K khai là người bán ma túy cho bị cáo; các đối tượng V, N và H là những người liên quan đến vụ án. Do không có thông tin cụ thể về nhân thân lai lịch, nên không có cơ sở để xác minh làm rõ.

- Anh Bùi Văn C là người lái xe taxi chở Nguyễn Xuân K, qua điều tra xác định anh C không biết về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Xuân K, nên không đề cập xử lý.

[9]Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10]Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Xuân K có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm i Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân K phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân K 21 (hai mƣơi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 09/12/2019.

Căn cứ: Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 và điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì còn nguyên niêm phong số: 926/GĐMT.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen kèm 01 sim, 01 pin, đã cũ, đã qua sử dụng và số tiền 270.000 đồng (Hai trăm bảy mươi nghìn đồng).

Trả lại bị cáo Nguyễn Xuân K 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Wiko, màu đen, màn hình bị vỡ kèm 01 sim, 01 pin, đã cũ, đã qua sử dụng.

(Tiền và vật chứng tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 86/BB-THA ngày 17/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm P).

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Xuân K phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm cã mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về