Bản án 48/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

 BẢN ÁN 48/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 232/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Lương Thị L, sinh năm 1984; (có mặt)

Bị đơn: Phan Thanh V, sinh năm 1978; (có mặt) Cùng địa chỉ: Ấp T, xã ĐLT, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 28 tháng 02 năm 2020 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lương Thị L trình bày: Tôi và ông Phan Thanh V có tìm hiểu nhau, sau đó chúng tôi tiến tới hôn nhân vào năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐLT. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không tin tưởng nhau, mâu thuẫn về tiền bạc, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn trầm trọng. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng đã rạn nứt, không còn khả năng hàn gắn, nên yêu cầu ly hôn với ông V.

Về con chung: Quá trình chung sống, tôi và ông V có 02 con chung tên Phan Thị Yến N, sinh ngày 16/8/2006, giới tính: Nữ và Phan Hữu L, sinh ngày 16/11/2007, giới tính: Nam. Hai con đang sống chung với chúng tôi. Khi ly hôn, tôi yêu cầu được nuôi hai con, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Phan Thanh V trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa: Tôi thống nhất lời trình bày của bà L về thời gian chung sống, việc đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng thỉnh thoảng xảy ra mâu thuẫn, gần đây nhất có xảy ra mâu thuẫn nhưng không trầm trọng. Bà L đi làm ăn xa ít đem tiền về nuôi con. Ông đi làm thợ hồ nuôi hai con ăn học. Nay bà L yêu cầu ly hôn thì tôi đồng ý.

Về con chung: Tôi và bà L có 02 con chung như bà L trình bày. Con hiện đang sống chung với chúng tôi. Khi ly hôn, tôi xin được quyền nuôi hai con, không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Các đương sự đều thống nhất các chứng cứ của vụ án đã được giao nộp đầy đủ và được công khai đúng thủ tục nhưng kết quả hòa giải đoàn tụ không thành nên đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bà Lương Thị L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Phan Thanh V, có hộ khẩu thường trú tại ấp T, xã ĐLT, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn có mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông V chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐLT ngày 01/02/2005 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, bà L cho rằng vợ chồng không tin tưởng nhau, mâu thuẫn về tiền bạc, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn trầm trọng nên bà xin ly hôn với ông V. Ngược lại ông V cho rằng Cuộc sống vợ chồng thỉnh thoảng xảy ra mâu thuẫn, gần đây nhất có xảy ra mâu thuẫn nhưng không trầm trọng. Bà L đi làm ăn xa ít đem tiền về nuôi con. Ông đi làm thợ hồ nuôi hai con ăn học. Nay bà L yêu cầu ly hôn thì ông đồng ý.

Bà L và ông V đều thừa nhận trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không tin tưởng nhau, mâu thuẫn về tiền bạc, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Xét thấy hôn nhân giữa bà L, ông V đã không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Tại phiên tòa, ông V đồng ý ly hôn nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]. Về con chung: Bà L và ông V trình bày quá trình chung sống có hai con chung tên Phan Thị Yến N, sinh ngày 16/8/2006, giới tính: Nữ và Phan Hữu L, sinh ngày 16/11/2007, giới tính: Nam. Hai con đang sống chung với ông bà. Khi ly hôn, bà L yêu cầu nuôi hai con, không yêu cầu ông V cấp dưỡng. Ông V yêu cầu nuôi hai con chung, không yêu cầu bà L cấp dưỡng.

Tại phiên tòa, bà L và ông V có tranh chấp quyền nuôi dưỡng con chung. Cháu Ngân có nguyện vọng sinh sống với mẹ. Cháu Luân có nguyện vọng sống chung với cha mẹ. Hằng ngày ông V chở cháu L đi học. Xét thấy để đảm bảo sự phát triển bình thường và theo nguyện vọng của hai cháu cần giao con chung tên Phan Thị Yến N, sinh ngày 16/8/2006, giới tính: Nữ cho bà L nuôi dưỡng; giao con chung tên Phan Hữu L, sinh ngày 16/11/2007, giới tính: Nam cho ông V nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5]. Về cấp dưỡng: Bà L, ông V không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về tài sản chung: Bà L và ông V trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về nợ chung: Bà L và ông V trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về án phí: Bà L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung ngân sách nhà nước theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lương Thị L đối với ông Phan Thanh V về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lương Thị L được ly hôn với ông Phan Thanh V.

2. Về con chung: Buộc ông V giao con chung tên Phan Thị Yến N, sinh ngày 16/8/2006, giới tính: Nữ, cho bà L nuôi dưỡng. Ông V không phải cấp dưỡng nuôi con do bà L không có yêu cầu. Buộc bà L giao con chung tên Phan Hữu L, sinh ngày 16/11/2007, giới tính: Nam, cho ông V nuôi dưỡng. Bà L không phải cấp dưỡng nuôi con do ông V không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Bà L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004831 ngày 28/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An. Bà L đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 48/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:48/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về