Bản án 129/2019/HNGĐ-ST ngày 06/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 129/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân; Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 90/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm2019 về "ly hôn, tranh chấp về nuôi con", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20/5/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị M, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn B, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Văn T, sinh năm 1988, Nơi ĐKHKTT: Thôn B, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Là người bị tuyên bố mất tích theo quyết định số 02/2019/QĐDS-ST ngày 02/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 08 tháng 4 năm 2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là chị Lương Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị M và anh T kết hôn với nhau do hai bên tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 31/12/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được khoảng 6 năm thì phát sinh mâu thuẫn; đến tháng 4 năm 2014 anh T đã bỏ nhà đi khỏi địa phương, không chuyển khẩu, không báo tạm vắng. Chị M đã nhiều lần đi tìm kiếm, hỏi han tin tức của anh T nhưng không có kết quả; Đến tháng 8 năm 2018 chị M có đề nghị Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân giải quyết tuyên bố anh Lê Văn T mất tích. Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân đã đăng tin tìm kiếm anh Lê Văn T trên báo Nhân Dân và trên Đài tiếng nói Việt Nam theo quy định, nhưng vẫn không có tin tức gì về anh T. Ngày 02/01/2019 Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân đã giải quyết, tuyên bố anh Lê Văn T mất tích, đến nay vẫn không có tin tức xác thực về anh T, nên chị M đề nghị Tòa án giải quyết cho chị M được ly hôn với anh T. Về con chung: chị M xác định vợ chồng có 01 (một) con chung là Lê Gia H, sinh ngày 27/01/2006; hiện nay con chung đang ở với chị M, nguyện vọng của chị M là xin được nuôi con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung vì chị M có đủ điều kiện nuôi con và hiện anh T đã mất tích. Về tài sản: chị M xác định vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Lê Văn T là người đã bị tuyên bố mất tích; Qúa trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết công khai văn bản tố tụng đối với bị đơn theo quy định.

Tại bản tự khai ngày 03/5/2019 cháu Lê Gia H trình bày nguyện vọng xin được ở với mẹ (là chị Lương Thị M).

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn là người đã bị tuyên bố mất tích, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 51, khoản 2 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân gia đình; Về hôn nhân: xử cho chị Lương Thị M được ly hôn với anh Lê Văn T; Về con chung: giao con chung là Lê Gia H cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng; Về nghĩa vụ cấp dưỡng: không xem xét; Về tài sản: không xem xét; Về án phí: chị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: chị Lương Thị M khởi kiện đề nghị giải quyết xin được ly hôn với anh Lê Văn T, có hộ khẩu thường trú tại: xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân.

Bị đơn là anh Lê Văn T đã bị Tòa án tuyên bố là người mất tích, Qúa trình giải quyết vụ án, không có tin tức xác thực về anh T; Căn cứ vào Điều 177, 179 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết công khai văn bản tố tụng đối với bị đơn theo quy định. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Lương Thị M và anh Lê Văn T tự nguyện kết hôn, đã được Ủy ban nhân dân xã X, huyện T cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 31/12/2008, nên xác định quan hệ hôn nhân giữa chị M và anh T là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống giữa vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nên từ tháng 4 năm 2014 anh T đã bỏ nhà đi biệt tích; chị M có làm đơn đề nghị và tại Quyết định số 02/2019/QĐDS-ST ngày 02/01/2019 Tòa án nhân dân huyện Thọ Xuân đã tuyên bố anh Lê Văn T là người mất tích, đến nay vẫn không có tin tức xác thực về anh T đang ở đâu, còn sống hay đã chết. Nay chị M có đơn yêu cầu giải quyết xin được ly hôn với anh T. Hội đồng xét xử xét thấy: yêu cầu của chị M là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, nên chấp nhận xử cho chị Lương Thị M được ly hôn với anh Lê Văn T.

[3] Về con chung: chị Lương Thị M và anh Lê Văn T có 01 (một) con chung là Lê Gia H, sinh ngày 27/01/2006; hiện nay con chung đang ở với chị M. Xét nguyện vọng xin được nuôi con chung của chị M thấy rằng: cháu H là con chung của vợ chồng đang ở ổn định với chị M và có nguyện vọng xin được ở với chị M, trong khi anh T là người mất tích, hiện không biết đang ở đâu, còn sống hay đã chết; Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con cần chấp nhận yêu cầu của chị M, giao con chung là Lê Gia H cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng: chị M không yêu cầu nên không xem xét.

[4] Về phần tài sản: chị M xác định vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh T là người mất tích, không có lời khai trong hồ sơ. Do đó không xem xét.

[5] Về án phí: chị Lương Thị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51, khoản 2 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lương Thị M.

Chị Lương Thị M được ly hôn với anh Lê Văn T.

2. Về con chung: Chị Lương Thị M và anh Lê Văn T có 01 (một) con chung là Lê Gia H, sinh ngày 27/01/2006.

Giao con chung là Lê Gia H cho chị Lương Thị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Lê Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng: không xem xét.

3. Về tài sản: Không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lương Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị M đã nộp, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2017/0001450 ngày 08/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thọ Xuân. Chị Lương Thị M đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

329
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 129/2019/HNGĐ-ST ngày 06/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:129/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về