Bản án 48/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 48/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 64/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ tên: Vũ Đức D - sinh ngày 05-8-2002 tại: tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn X, xã T, huyện B, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình P (Vũ Văn P) và bà Nguyễn Thị D1; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12-12-2018, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 21-12-2018 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Vũ Đức D: Ông Vũ Đình P (Vũ Văn P), sinh năm 1980 và bà Nguyễn Thị D1, sinh năm 1982.

Cùng nơi cư trú: Thôn X, xã T, huyện B, tỉnh Nam Định.

Ông Vũ Đình P, bà Nguyễn Thị D1 có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Vũ Đức D: Bà Trần Thị T - Trợ giúp viên của Trung Tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Nam Định. 

Bà Trần Thị T có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Phạm Văn H, anh Vũ Mạnh T1 (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 12-12-2018, tổ công tác Công an phường T, thành phố Đ làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 155 đường X, xã X, thành phố Đ phát hiện Vũ Đức D đang đứng cạnh xe máy biển kiểm soát: 24B2-339.03 một mình có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác yêu cầu kiểm tra, D tự giác lấy từ trong túi áo khoác bên trái đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã mời người chứng kiến việc kiểm tra bên trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long có 01 gói nilong màu trắng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (D khai là ma túy đá). Tổ công tác đã niêm phong vật chứng, đưa D cùng người làm chứng về trụ sở lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, còn thu giữ của D 01 chiếc xe máy biển kiểm soát: 24B2-339.03.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 1101/GĐKTHS ngày 17-12-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Vũ Đức D là chất ma túy, loại chất ma túy là Methamphetamine, có khối lượng 2,830 gam (không phẩy tám ba không gam).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Vũ Đức D khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 12-12-2018, D đang ở chỗ làm tại Công ty TNHH thương mại A ở khu công nghiệp X, thành phố Đ thì V (người làm cùng công ty) rủ D đi mua ma túy về cùng sử dụng. D nói với V là D không có tiền, V nói V có tiền. D đồng ý lấy xe máy biển kiểm soát: 24B2-339.03 ra cổng công ty đón và chở V đến cổng làng D, xã X, thành phố Đ. V lấy xe của D đi khoảng 10 phút rồi về đưa cho D 300.000 đồng để mua ma túy. D cầm tiền V đưa rồi V điều khiển xe máy của D chở D đến khu vực đường H, phường K, thành phố Đ. D gặp và mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 gói ma túy đá để trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long với giá 300.000 đồng. D cầm và cất ma túy vừa mua vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc. Sau đó, V chở D về đến khu vực trước cửa số nhà 155 đường x, xã X, thành phố Đ thì V xuống xe bảo D là V đi mua thuốc lá, D đang đứng chờ V thì bị phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát: 24B2-339.03 D khai mượn của mẹ là bà Nguyễn Thị D1. Bà Nguyễn Thị D1 không biết việc D mượn xe đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị D1.

Đối với đối tượng đã bán gói ma túy cho Vũ Đức D, tài liệu cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với đối tượng tên V đã rủ và đưa tiền cho DDự đi mua ma túy về cùng sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tiến hành xác minh tại Công ty TNHH thương mại A có nhân viên là Hoàng Vũ V – sinh năm 1992, trú tại: Xóm T, thôn X, xã X, thành phố Đ, hiện tại V đã nghỉ việc. Xác minh tại xã X, thành phố Đ hiện tại V không có mặt tại địa phương, không rõ đi đâu nên cơ quan điều tra đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Bản cáo trạng số 67/CT-VKSTPNĐ ngày 31-01-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Vũ Đức D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Vũ Đức D tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Đức D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015: xử phạt bị cáo Vũ Đức D từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù; miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.

Người đại diện theo pháp luật cho bị cáo Vũ Đức D là bà Nguyễn Thị D1 và ông Vũ Đình P đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Vũ Đức D trình bày: Bản thân bị cáo là người dưới 18 tuổi, khả năng nhận thức của bị cáo về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội còn chưa đầy đủ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. phạt.

Bị cáo Vũ Đức D nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Đức D, người đại diện theo pháp luật của bị cáo Vũ Đức D là ông Vũ Đình P và bà Nguyễn Thị D1, người bào chữa cho bị cáo Vũ Đức D là bà Trần Thị T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Đức D phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 12 giờ ngày 12-12-2018, Vũ Đức D đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,830 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang tại khu vực trước cửa số nhà 155 đường X, xã X, thành phố Đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, khối lượng Methamphetamine bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 2,830 gam nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: 

Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Vũ Đức D đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, khi phạm tội bị cáo Vũ Đức D mới 16 tuổi 04 tháng nên được áp dụng các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Về các tình tiết tăng nặng: Bị cáo Vũ Đức D không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt: Bị cáo được áp dụng các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đồng thời được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử sẽ xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt bị truy tố theo quy định của khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Vũ Đức D tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, bị cáo dưới 18 tuổi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí:  Bị cáo Vũ Đức D bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Đức D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Vũ Đức D 12 tháng tù (mười hai tháng tù). Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 12-12-2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ. (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhân vật chứng ngày 31-01- 2019).

3. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.  Bị cáo Vũ Đức D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Đức D, người đại diện hợp pháp của bị cáo là ông Vũ Đình P và bà Nguyễn Thị D, người bào chữa cho bị cáo là bà Trần Thị T được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về