Bản án 48/2019/HSST ngày 07/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP.BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 48/2019/HSST NGÀY 07/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07/3/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 23/2019/HSST, ngày 29 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2019/QĐXXST-HS, ngày 20 tháng 02 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Tấn C; Tên gọi khác: Đ; Sinh năm: 1992; Tại tỉnh Khánh Hòa; Nơi đăng ký HKTT: Thôn P, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; Chỗ ở: Không nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 04/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Tiền sự: Không; Tiền án: 01 tiền án; Con ông Lê Xuân H; sinh năm 1960. Hiện trú tại: Xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Con bà Nguyễn Thị P; sinh năm 1958. Hiện trú tại: Thôn P, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hoà; Bị cáo chưa có vợ con.

Nhân thân:

Ngày 14/02/2012, bị TAND huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 08/2012/HSST. Ngày 17/3/2012 chấp hành xong án phạt tù về địa phương sinh sống;

Ngày 20/6/2013, bị TAND huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà xử phạt 01 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 34/2013/HSST. Ngày 07/4/2014 chấp hành xong án phạt tù;

Ngày 20/5/2015, bị TAND thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 167/2015/HSST. Ngày12/11/2016 chấp hành xong án phạt tù, chưa được xoá án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/10/2018 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Tiến S – Sinh năm: 1991

Địa chỉ: T 6, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk ( Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Tấn C là đối tượng nghiện chất ma túy loại Heroine. Vào khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 24/10/2018 C một mình đón xe buýt từ xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk lên thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để mua ma tuý về sử dụng. Khi đến khu vực vòng xoay Km3, thành phố B, C xuống xe và đi bộ vào trong đường hẻm Y, phường T đến trước một ngôi nhà được rào kín (không rõ số nhà) đưa số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) qua một khe cổng thì được người bên trong đưa lại 01 gói giấy bạc có chứa chất rắn màu trắng. Mua được ma tuý, C cất giấu vào trong túi áo khoác Jean bên phải đang mặc trên người rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi đến khu vực đường hẻm số 16 đường N, phường T, thành phố B thì lực lượng Công an phường Tân Lập, thành phố B phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói giấy bạc có chứa chất ma túy và đã được niêm phong theo quy định của pháp luật.

Tại bản Kết luận giám định số 946/GĐMT-PC09 ngày 30/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy bạc được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,1925 gam.Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,1680 gam đã được niêm phong.

Tại bản cáo trạng số: 47/CT-VKS ngày 28/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố bị cáo Lê Tấn C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Tấn C theo bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Tấn C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy

Xử phạt: Bị cáo Lê Tấn C mức án từ 5 năm 6 tháng đến 6 năm tù.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy đối với 0,1680 gam Heroine còn lại sau giám định được niêm phong tại gói số 946/GĐMT-PC54 ngày 30/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo không có ý kiến đối đáp tranh luận gì, mà chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Lê Tấn C đã khai nhận: Vào khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 24/10/2018, tại khu vực đường hẻm số 16 đường N, phường T, thành phố B, Công an phường Tân Lập phát hiện bắt quả tang Lê Tấn C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi áo khoác Jean bên phải đang mặc trên người của C 01 gói giấy bạc có chứa chất ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,1925 gam.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma thuột tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Tấn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Như vậy có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Bị cáo Lê Tấn C đã có hành vi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS. 

Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a)………;

…………;

o) Tái phạm nguy hiểm;

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm sự thống nhất quản lý ma túy của Nhà nước, đồng thời còn xâm phạm đến trật tự trị an trong xã hội. Bị cáo nhận thức được Heroine là chất ma túy gây nghiện nặng làm hủy hoại sức khỏe con người, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội, tội phạm về hình sự như cướp giật, trộm cắp….. Hiện nay, loại tội phạm về ma túy đang diễn ra phức tạp, nhất là đối với tầng lớp thanh, thiếu niên, tệ nạn này vẫn đang là mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội. Một trong những biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy là việc xử lý các hành vi phạm tội về ma túy thật nghiêm khắc. Do ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo đã có hành vi tàng trữ chất Heroine, có tổng trọng lượng là 0,1925 gam. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra và xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo cải tạo thành công dân tốt và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[2] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét về nhân thân của bị cáo: Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu đã nhiều lần bị kết án. Ngày 20/5/2015, bị TAND thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 167/2015/HSST.

Ngày 12/11/2016 chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xoá án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh cho bản thân mà tiếp tục phạm tội, nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự nên cần phải xử lý nghiêm bị cáo trước pháp luật để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Lê Tấn C, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp nên cần chấp nhận.

Đối với nguồn ma túy, bị cáo khai nhận mua của một người (không rõ nhân thân, lai lịch) tại một căn nhà trong đường hẻm Y, phường T, thành phố B (không rõ đặc điểm, số nhà). Tuy nhiên, đến nay cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột vẫn chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng nên tách hành vi bán ma túy của đối tượng này ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[3] Về hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình xét xử, tại phiên tòa bị cáo cũng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo là phù hợp. Cần chấp nhận.

[4] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy đối với 0,1680 gam Heroine còn lại sau giám định được niêm phong tại gói số 946/GĐMT-PC54 ngày 30/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk.

Do vậy, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về phần xử lý vật chứng là có căn cứ. Cần chấp nhận.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Tấn C (Đ) phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: Bị cáo Lê Tấn C (Đ) 05 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 24/10/2018.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy đối với 0,1680 gam Heroine còn lại sau giám định được niêm phong tại gói số 946/GĐMT-PC54 ngày 30/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Tấn C phải chịu 200.000 đồng, án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2019/HSST ngày 07/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về