Bán án 48/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TRÀ VINH

BÁN ÁN 48/2018/HS-ST NGÀY 26/09/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 9 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tọa lạc tại khóm 4, thị trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2018/HSST ngày 22 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 218/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2018 đối với các bị cáo:

- Bị cáo thứ nhất: Huỳnh Duy T, sinh năm 1988. (có mặt)

Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Huỳnh Văn Ta, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1968; Vợ: Bùi Thị M, sinh năm 1991; Anh chị em ruột có 01 người, sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại điều tra.

- Bị cáo thứ hai: Lê Hải Đ, sinh ngày 06/7/1985. (có mặt)

Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Văn D, sinh năm 1961 và bà Huỳnh Thị Bé S, sinh năm 1959; Vợ: Huỳnh Thị Mộng Th (đã ly hôn); Con: có 01 người sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại điều tra.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Văn Mười M1, sinh năm 1972 (yêu cầu xét xử vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện V, Vĩnh Long.

2/ Ông Đặng Lê Phương V, sinh năm 1981 (yêu cầu xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

3/ Ông Lê Hải Đ1, sinh năm 1981 (yêu cầu xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 3, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

4/ Ông Lê Văn M2, sinh năm 1977 (yêu cầu xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

5/ Ông Lục Kiến C, sinh năm 1976 (yêu cầu xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 6, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

6/ Ông Lê Văn H, sinh năm 1970 ( yêu cầu xét xử vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp 2, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

7/ Ông Lê Minh T, sinh năm 1998 (yêu cầu xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 03 giờ 10 phút ngày 03/7/2016, tiếp nhận tin báo lực lượng Công an huyện C kết hợp với Công an xã M, kiểm tra tại quán cà phê của ôngLê Văn M2, tọa lạc ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh, bắt quả tang Huỳnh Duy T đang nhận cá cược bóng đá ăn, thua bằng tiền với các con bạc thông qua tin nhắn điện thoại di động, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Tính và thu giữ tang vật của Huỳnh Duy T gồm: 01 máy điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh - đen, số IMEI 860885039733517 và số IMEI 860885039733509, bên trong máy có 02 thẻ sim, thẻ sim 1 số thuê bao 01238706746, thẻ sim 2 số thuê bao 0939163610; tiền Việt Nam đồng là 19.300.000 đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha, biển kiểm soát 63B1-287.30.

Vào lúc 08 giờ 45 phút, ngày 03/7/2016, Cơ quan điều tra Công an huyện C tiến hành kiểm tra máy điện thoại di động thu giữ của T xác định: ở trận đấu bóng đá giữa đội tuyển Đức với đội tuyển Italia, giải UERO 2016 diễn ra lúc 02 giờ ngày 03/7/2016, T đánh bạc dưới hình thức cá cược bóng đá ăn, thua bằng tiền với các con bạc thông qua tin nhắn gửi đến số thuê bao 01238706746 của T cụ thể như sau:

- Vào lúc 19 giờ 55 phút, ngày 02/7/2016, Lê Hải Đ1, sinh năm 1981, nơi cư trú: ấp 3, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh sử dụng số thuê bao 01678286192 nhắn tin vào số thuê bao 01238706746 của T với nội dung “Đưc 1C”. Tức là, Lê Hải Đ1 chọn đội tuyển Đức với số tiền cá cược là 1.000.000 đồng. Tính đồng ý nhắn tin trả lời ok.

- Vào lúc 20 giờ 22 phút, ngày 02/7/2016, Đặng Lê Phương V, sinh năm 1988, nơi cư trú: ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh sử dụng số thuê bao +84918482617 nhắn tin vào số thuê bao 01238706746 của T với nội dung “Y5X”. Tức là, Đặng Lê Phương V chọn đội tuyển Italia với số tiền cá cược là 500.000 đồng. T đồng ý nhắn tin trả lời ok.

- Vào lúc 20 giờ 53 phút, ngày 02/7/2016, Lê Hải Đ, sinh năm 1985, nơi cư trú: ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh sử dụng số thuê bao 0936608749 nhắn tin vào số thuê bao 01238706746 của T với nội dung “Duc.5C”. Tức là, Lê Hải Đ chọn đội tuyển Đức với số tiền cá cược là 5.000.000 đồng. T đồng ý nhắn tin trả lời ok.

- Vào lúc 21 giờ 43 phút, ngày 02/7/2016, Nguyễn Văn Mười M1, sinh năm 1972, nơi cư trú: ấp A, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Long sử dụng số thuê bao 0972693449 nhắn tin vào số thuê bao 01238706746 của T với nội dung “Ý 5xi”. Tức là, Nguyễn Văn Mười M1 chọn đội tuyển Italia với số tiền cá cược là 500.000 đồng. T đồng ý nhắn tin trả lời ok.

Khi bắt quả tang thì trận đấu chưa kết thúc. Như vậy, tổng số tiền đánh bạc của Tính là 7.000.000 đồng; số tiền đánh bạc của Lê Hải Đ là 5.000.000 đồng; số tiền đánh bạc của Đặng Lê Phương V là 500.000 đồng; số tiền đánh bạc của Lê Hải Đ1 là 1.000.000 đồng; số tiền đánh bạc của Nguyễn Văn Mười M1 là 500.000 đồng.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an huyện C đã giao trả cho bị cáo Huỳnh Duy T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha, biển kiểm soát 63B1-287.30.

Tại bản cáo trạng số: 34/VKS-HS, ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long truy tố bị cáo Huỳnh Duy T và bị cáo Lê Hải Đ về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Huỳnh Duy T và bị cáo Lê Hải Đ hoàn toàn thống nhất với nội dung bản cáo trạng của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện C và thừa nhận hành vi phạm tội như sau: Vào khoảng 03 giờ 10 phút, ngày 03/7/2016, tại quán cà phê của ông Lê Văn M2, tọa lạc ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh Trà Vinh, bị cáo Huỳnh Duy T đang trực tiếp nhận tin nhắn cá cược bóng đá ăn thua bằng tiền giữa đội tuyển Đức với đội tuyển Italia, giải UERO 2016 diễn ra lúc 02 giờ ngày 03/7/2016, với số tiền đánh bạc 7.000.000 đồng; bị cáo Lê Hải Đ cá cược bóng đá với T với số tiền đánh bạc 5.000.000 đồng.

Quan điểm của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C: Sau khi phân tích các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 20 và Điều 30 của Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo Huỳnh Duy T từ 15.000.000đ đến 20.000.000đ và bị cáo Lê Hải Đ từ 5.000.000đ đến 10.000.000đ, về tội Đánh bạc. Ngoài ra, vị còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc các bị cáo có nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Qua quan điểm của Vị đại diện Viện kiểm sát, bị cáo Huỳnh Duy T và bị cáo Lê Hải Đ không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo Huỳnh Duy T và bị cáo Lê Hải Đ, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa Vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của luật Tố tụng hình sự và giới hạn xét xử của Tòa án theo Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và những người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đồng thời thống nhất với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản kiểm tra máy điện thoại và biên bản đối chiếu, biên bản khám nghiệm hiện trường. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1]. Lời nhận tội của bị cáo Huỳnh Duy T và bị cáo Lê Hải Đ tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản kiểm tra máy điện thoại và biên bản đối chiếu, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra Công an huyện C, tỉnh Trà Vinh thu thập có được.

Do vậy, Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C quyết định truy tố bị cáo Huỳnh Duy T và bị cáo Lê Hải Đ về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

[2]. Xét hành vi phạm tội của hai bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; Bởi vì, việc cá cược bóng đá ăn thua bằng tiền là một hình thức đánh bạc trái pháp luật bị Nhà nước nghiêm cấm, được quy định trong Bộ luật hình sự. Các bị cáo là người đã trưởng thành có đủ nhận thức những quy định của pháp luật, kiến thức xã hội, là người có sức khỏe để lao động, nhưng không lo chí thú làm ăn, chỉ vì muốn thu lợi bất chính, không cần bỏ ra công sức lao động vẫn có được lợi nhuận, vì thế luôn tìm mọi cách để che dấu hành vi phạm tội đối với các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương và các cơ quan thực thi pháp luật, nhằm thực hiện hành vi đánh bạc. Bị cáo Huỳnh Duy T là người trực tiếp ăn thua bằng tiền với các con bạc với số tiền 7.000.000đ, trong này có bị cáo Lê Hải Đ tham gia đánh bạc số tiền 5.000.000đ. Bản thân các bị cáo đã có gia đình, đáng lý ra các bị cáo phải biết chăm lo cuộc sống gia đình bằng sức lao động hợp pháp được pháp luật ghi nhận, là tấm gương tốt đối với gian đình và xã hội, các bị cáo không làm những việc đó mà đi ngược lại có hành vi phạm tội.

Hành vi của các bị cáo là đồng phạm giản đơn nhưng vai trò của từng bị cáo khác nhau. Bị cáo Huỳnh Duy T là người tổ chức cho việc đánh bạc bằng hình thức cá cược bóng đá ăn, thua bằng tiền với các con bạc. Bị cáo Lê Hải Đ là người tham gia đánh bạc với T.

[3]. Tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội đánh bạc của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất an ninh trật tự tại địa phương làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động sinh sống của nhân dân, gây ra sự đói nghèo và nhiều gia đình phải lâm vào hoàn cảnh khó khăn, đỗ vỡ hạnh phúc gia đình, ngoài ra còn gây ra nhiều hành vi, vi phạm pháp luật khác, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân tạo nhiều gánh nặng cho xã hội. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, tội phạm đã hoàn thành.

[4] Nhằm làm giảm bớt những tệ nạn xã hội, góp phần ổn định tình hình trật tự tại địa phương và đấu tranh ngăn ngừa tội phạm. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi của các bị cáo và tính chất của vụ án.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử cũng cần xem xét: Sau khi phạm tội các bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo Huỳnh Duy T có ông nội là ông Huỳnh Văn K, chú ruột là ông Huỳnh Văn Bé T được công nhận là liệt sĩ, có bà nội là bà Lâm Thị C được công nhận là Bà mẹ Việt Nam anh hùng; bị cáo Lê Hải Đ có ông nội là ông Lê Văn B, ông ngoại là ông Huỳnh Văn K, cậu ruột là ông Huỳnh Văn Bé T được công nhận là liệt sĩ, có bà ngoại là bà Lâm Thị C được công nhận là Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đây là những căn cứ để áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 đối với các bị cáo. Vì vậy không cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Do đó, ý kiến đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C là có căn cứ với những nhận định nêu trên, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Đối với Lê Hải Đ1; Đặng Lê Phương V; Nguyễn Văn Mười M1 và Lê Văn M2 đã bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc.

[5]. Về vật chứng: Trong quá trình điều tra cơ quan điều tra thu giữ gồm:

- 01 (một) máy điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh – đen, số IMEI 860885039733517 và số IMEI 860885039733509, bên trong máy có 02 thẻ sim, thẻ sim số 1 số thuê bao 01238706746, thẻ sim 2 số thuê bao 0939163610. Đây là điện thoại của bị cáo Huỳnh Duy T dùng liên lạc để thực hiện hành vi phạm tội, tịch thu sung vào công quỷ nhà nước.

- Tiền Việt Nam 19.300.000 đ (Mười chín triệu ba trăm nghìn đồng). Đây là tài sản của bị cáo Huỳnh Duy T, không liên quan đến hành vi phạm tội, giao trả cho bị cáo.

- Số tiền cá cược 5.000.000 đồng của bị cáo Lê Hải Đ, buộc bị cáo Đ phải nộp, tịch thu sung vào công quỹ nhà nước.

[6]. Về án phí: Buộc bị cáo Huỳnh Duy T và bị cáo Lê Hải Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Duy T phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ: khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 20 và Điều 30 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Duy T 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng), sung vào công quỹ nhà nước.

2. Tuyên bố bị cáo Lê Hải Đ phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ: khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 20 và Điều 30 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

- Xử phạt bị cáo Lê Hải Đ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), sung vào công quỹ nhà nước.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

+ Tịch thu sung vào công quỹ nhà nước: 01 (một) máy điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh – đen, số IMEI 860885039733517 và số IMEI 860885039733509, bên trong máy có 02 thẻ sim, thẻ sim số 1 số thuê bao 01238706746, thẻ sim 2 số thuê bao 0939163610.

+ Giao trả cho bị cáo Huỳnh Duy T: Tiền Việt Nam 19.300.000 đ (Mười chín triệu ba trăm nghìn đồng), hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện C quản lý.

+ Buộc bị cáo Lê Hải Đ phải nộp số tiền đánh bạc 5.000.000 đồng ( năm triệu đồng ), tịch thu sung vào công quỷ nhà nước.

4. Về án ph : Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

+ Buộc bị cáo Huỳnh Duy T và bị cáo Lê Hải Đ, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho các bị cáo được biết,có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày án sơ thẩm tuyên. Đối với người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú theo quy định pháp luật.

(Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy địnhtại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bán án 48/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:48/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về