Bản án 48/2018/HS-ST ngày 24/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 48/2018/HS-ST NGÀY 24/07/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24  tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2018 đối với các bị cáo:

Trần Sơn T, tên gọi khác Đen; sinh ngày 18/3/1987; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: đường AC, Phường C, quận TB, Thành phố H; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 09/12; con ông Trần Chí Dân và bà Thái Thị Hạnh, tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: 11/8/2006, Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 3 năm tù về tội Cướp giật tài sản; ngày 07/6/2007, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm xử phạt 02 năm 06 tháng tù theo Bản án số 272/HSPT; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/10/2017 (có mặt).

Võ Quốc Trung N, sinh ngày 23/3/1996; tại Quảng Ngãi; chỗ ở: đường LLQ, Phường C, quận TB, Thành phố H; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 9/12; con ông Võ Quốc Cường và bà Trần Thị Lào; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/10/2017 (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Hồ Hoài T1, sinh năm: 1994; địa chỉ: ấp Kinh Hội, xã Khánh Bình, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 16 giờ 40 phút ngày 24/10/2017, tại trước số 32 đường 16 Cư xá Lữ Gia, Phường 15, Quận 11, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 11 phát hiện bắt quả tang Võ Quốc Trung N đang bán trái phép chất ma túy cho Hồ Hoài T1. Thu giữ của T1 01 gói nylon chứa ma túy loại tinh thể không màu nên đưa cả hai cùng vật chứng vụ án về Công an Phường 15, Quận 11 lập biên bản phạm tội quả tang chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 xử lý theo thẩm quyền.

Võ Quốc Trung N khai nhận số ma túy mà Công an thu giữ là của Trần Sơn T (tên khác Đen) nhờ Nam giao cho Hồ Hoài T1. Hiện Thái đang ở tại Phòng 203, phòng cho thuê Dạ Lan, số 23 đường 16 cư xá Lữ Gia, Phường 15, Quận 11.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 tiến hành khám xét khẩn cấp Phòng 203, tầng 2 phòng cho thuê Dạ Lan số 23 đường 16 cư xá Lữ Gia, Phường 15, Quận 11 phát hiện T đứng tại hành lang tầng 2. Khi thấy lực lượng Công an, T đã ném các gói ma túy xuống hành lang tầng 2 và tầng 1. Thu giữ của T: 03 gói nylon có chứa tinh thể không màu thu giữ tại lối đi lên cầu thang tầng 1; 02 gói nylon có chứa tinh thể không màu thu giữ tại lối đi lên cầu thang tầng 2. Tại phòng 203 thu giữ: 01 kẹp gắp; 20 vỏ túi nylon nhỏ; 01 kéo; 01 quẹt gas; 01 cuộn băng keo đen; 01 nỏ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu đen; 01 ĐTDĐ hiệu ASUS màu đen; 01 ống thủy tinh có đầu phểu tròn; 02 đoạn ống nhựa màu xanh hàn kín 01 đầu, đầu còn lại cắt nhọn; tiền Việt Nam: 1.200.000 đồng; 01 hộp giấy màu vàng bên trong có 01 hộp nhựa màu trắng, 01 kéo cắt chỉ và 05 vỏ túi nylon; 02 xe gắn máy biển số 51H4-8329, 59P1-83751.

Đồng thời, mời Dương Chí Tài có liên quan đến vụ án về trụ sở Công an Phường 15, Quận 11 làm rõ. Thu giữ của Tài: 01 điện thoại di động hiệu Asus màu đen, bể màn hình; số tiền 230.000 đồng.

Ngày 25/10/2017, Cơ quan điều tra Công an Quận 11 bắt khẩn cấp Trần Sơn T về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Tại kết luận giám định số: 1690/KLGD-H ngày 14/11/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP.Hồ Chí Minh xác định:

+ Gói 1: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Hồ Hoài T1 và hình dấu tròn Công an Phường 15 Quận 11 (thu giữ của Thanh) gửi đến giám định có khối lượng 0,2215g là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.

+ Gói 2: Tinh thể không màu trong 03 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Trần Sơn T và hình dấu tròn Công an Phường 15 Quận 11 (thu giữ tại lối đi lên cầu thang tầng 1, phòng cho thuê Dạ Lan) gửi đến giám định có khối lượng 2,2245g là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.

+ Gói 3: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Trần Sơn T và hình dấu tròn Công an Phường 15 Quận 11 (thu giữ tại lối đi lên cầu thang tầng 2, phòng cho thuê Dạ Lan) gửi đến giám định có khối lượng 5,8928g là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Võ Quốc Trung N khai nhận: quen biết với Trần Sơn T từ trước. Vào khoảng 16 giờ 10 phút ngày 24/10/2017, Nam đến phòng cho thuê Dạ Lan tìm T hỏi mua ma túy nhưng không gặp T nên ngồi chờ dưới quầy lễ tân. Một lúc sau, Dương Chí Tài cũng đến chờ Thái để mua ma túy. Khi Tđến dẫn cả hai lên phòng 203, Nam đứng ngoài chờ thì T nghe điện thoại của T1 gọi hỏi mua một gói ma túy đá với giá 300.000 đồng. T đưa 01 gói ma túy cho N nhờ mang xuống giao cho T1 tại trước số 32 đường 16 Cư xá Lữ Gia, Phường 15, Quận 11 (đối diện phòng cho thuê Dạ Lan) và lấy 300.000 đồng. Khi Nam xuống gặp và giao cho T1 01 gói ma túy đá, nhận 300.000 đồng từ T1 thì bắt quả tang như nêu trên. Ngoài ra, trước đó ngày 10/10/2017, N được T nhờ đi giao 01 gói ma túy đá cho T1 tại trước siêu thị Coop Mart Lữ Gia, Phường 15, Quận 11, nhận 300.000 đồng về giao lại cho T. N khai nhận chỉ giao ma túy cho T1, ngoài ra không có giao cho ai khác. Việc N đi giao ma túy cho T không được hưởng lợi gì. Bản thân, N đã 02 lần mua ma túy của T tại phòng cho thuê Dạ Lan, mỗi lần một gói, với giá 200.000 đồng, lần gần nhất là trước ngày 24/10/2017, khoảng một tuần. Sau khi, mua ma túy xong N đem về nhà sử dụng, không sử dụng ma túy chung với Trần Sơn T, Dương Chí Tài.

Trần Sơn T khai nhận: Quen biết với Võ Quốc Trung N và Dương Chí Tài từ trước. T thuê phòng 203 phòng cho thuê Dạ Lan ở được khoảng 10 ngày trước khi bị bắt. Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 24/10/2017, T nhận điện thoại của Hồ Hoài T1 hỏi mua một gói ma túy đá, với giá 300.000 đồng. T hẹn gặp T1 giao dịch ma túy tại trước phòng cho thuê Dạ Lan. Khi T đến phòng cho thuê thì gặp Tài và N đang đợi T để hỏi mua ma túy về sử dụng. T dẫn N và Tài lên phòng 203, tầng 2. Lúc này, T1 gọi điện cho T. T lấy 01 gói ma túy đá đưa cho N nhờ N đem xuống giao cho T1 và lấy 300.000 đồng. Khi N đang giao ma túy cho T1 và nhận tiền 300.000 đồng thì bị Công an bắt quả tang như trên. T thừa nhận đã hai lần nhờ N đi giao ma túy cho T1 và đem tiền 300.000 đồng về cho T vào các ngày 10/10/2017 và ngày 24/10/2017. Riêng tối ngày 23/10/2017, T trực tiếp bán 01 gói ma túy đá với giá 300.000 đồng cho T1 tại trước siêu thị Coop Mart Lữ Gia, Phường 15, Quận 11. Ngoài ra, T thừa nhận đã bán ma túy nhiều lần cho N và Dương Chí Tài tại phòng cho thuê Dạ Lan. Ngày 24/10/2017, N và Tài đến gặp T để hỏi mua ma túy nhưng chưa kịp mua ma túy thì bị bắt giữ. T nghiện ma túy từ đầu năm 2017, T bắt đầu bán ma túy từ đầu tháng 10/2017 cho đến ngày bị bắt. Nguồn gốc số ma túy trên, T mua của Dũng (không rõ lai lịch) trên đường Vĩnh Viễn, Quận 10, mỗi lần mua 01 gói với giá 2.100.000 đồng, mang về phòng cho thuê Dạ Lan tự phân ra các gói nhỏ để bán cho đối tượng nghiện, mỗi gói giá từ 50.000 đồng đến 300.000 đồng, địa điểm giao dịch tại trước siêu thị Coop Mart Lữ Gia và tại phòng cho thuê Dạ Lan. Mỗi gói T hưởng lợi từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng, trung bình mỗi ngày thu lợi bất chính khoảng 250.000 đồng. Tổng số tiền T thu lợi bất chính từ khi bán ma túy đến ngày bị bắt khoảng 5.500.000 đồng. T đã tiêu xài cá nhân hết số tiền này. Những người mua ma túy của T không biết lai lịch. T không sử dụng ma túy chung với N và Tài tại phòng trọ. Ngoài ra, T thừa nhận chỉ nhờ N đi giao ma túy không có nhờ Dương Chí Tài đi giao ma túy. Tổng số tiền bị cáo thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy là 5.500.000đ .

Hồ Hoài T1 khai nhận: Thanh quen biết bị cáo T vào tháng 9/2017. Vào khoảng 16 giờ 30 ngày 24/10/2017, T điện thoại gặp T hỏi mua 01 gói ma túy, với giá 300.000 đồng. T hẹn gặp tại trước phòng cho thuê Dạ Lan. Khi T1 đến đây thì gặp N đi từ phòng cho thuê ra và giao 01 gói ma túy cho T1 đồng thời nhận 300.000 đồng của T1 thì Công an Quận 11 bắt quả tang như trên. Trước đó, T1 đã 02 lần mua ma túy của T, cụ thể: lần thứ nhất vào ngày 10/10/2017, T1 điện thoại cho Trần Sơn T hỏi mua 01 gói ma túy đá, với giá 300.000 đồng. T đồng ý và hẹn giao dịch tại trước siêu thị Coop Mart Lữ Gia, phường 15, quận 11. Sau đó, T nhờ N đến gặp T giao 01 gói ma túy và nhận tiền của T;  Lần thứ hai, vào tối ngày 23/10/2017, T điện thoại cho T hỏi mua 01 gói ma túy đá, với giá 300.000 đồng. T đồng ý và hẹn giao dịch tại trước siêu thị Coop Mart Lữ Gia, phường 15, quận 11. Sau đó, T trực tiếp đến bán ma túy cho T.

Dương Chí Tài khai nhận: quen biết Trần Sơn T từ trước. Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 24/10/2017, Tài đến phòng cho thuê Dạ Lan tìm T hỏi mua ma túy nhưng không gặp T, gặp N tại quầy tiếp tân. Một lúc sau, T đến dẫn N và Tài lên phòng 203 tầng 2. Tại đây, T lấy 01 gói ma túy đưa cho N nói N xuống giao ma túy cho T1. Còn Tài và T vào phòng thì cả hai nghe tiếng N la lớn. T kêu Tài đi xuống xem sao, đồng thời T cũng ra khỏi phòng. Khi Tài xuống tầng trệt thấy N bị Công an 11 bắt giữ. Tài cũng bị giữ lại để làm rõ. Tài thừa nhận đã mua ma túy của T hơn 10 lần, thời gian không nhớ rõ, địa điểm mua tại phòng cho thuê Dạ Lan, gần nhất là cách 3-4 ngày trước khi Tài bị bắt, mỗi lần mua từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng/ 01 gói, có lúc Tài sử dụng ma túy tại phòng, có khi mang về nhà sử dụng, có khi sử dụng chung ma túy với T. Ngoài ra, Tài thừa nhận có đi giao ma túy cho T, địa điểm tại chợ Ông Địa, đầu đường 16 đối diện trường đua Phú Thọ, khu vực gần phòng trọ cho thuê Dạ Lan. Việc Tài giao ma túy cho T được T cho sử dụng ma túy. Những người mua ma túy của T, Tài không biết lai lịch chỉ gặp ngoài đường. Ngoài ra, Tài thừa nhận biết N cũng phụ giúp T giao ma túy cho đối tượng nghiện.

Do lời khai của Trần Sơn T và Dương Chí Tài có mâu thuẫn nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tiến hành cho Thái và Tài đối chất với nhau. Kết quả qua đối chất không làm rõ được mâu thuẫn này.

Vật chứng vụ án:

- Thu giữ của Võ Quốc Trung N

+ 01 máy điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng, N sử dụng để liên lạc giao ma túy cho T1 và liên lạc với T.

+ Số tiền 600.000 đồng, trong đó 300.000 đồng tiền bán ma túy cho T1; còn 300.000 đồng N định mua ma túy của T.

+ 01 xe máy biển số 53PB-7134 thu giữ của N. Qua xác minh do ông Nguyễn Thạch Hùng đứng tên chủ sở hữu. Ông Hùng đã cho ông Võ Quốc Cường (là cha bị cáo N) sử dụng. Ông Cường khai nhận: ông và N cùng sử dụng. Ngày 24/10/2017, ông Cường không biết N sử dụng xe đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả xe trên cho ông Võ Quốc Cường.

Thu giữ của Trần Sơn T:

+ 01 máy điện thoại di động hiệu Nokia màu đen dùng liên lạc mua bán ma túy.

+ Dụng cụ sử dụng ma túy và phân chia ma túy gồm: 01 kẹp gắp, 01 kéo, 01 quẹt gas, 20 vỏ túi nylon, 01 cuộn băng keo, 01 nỏ sử dụng ma túy, 01 ống thủy tinh, 02 đoạn ống nhựa, 01 hộp giấy màu vàng; 01 kéo cắt chỉ, 05 gói nylon không chứa gì.

+ Tiền 1.200.000 đồng là tiền riêng của bị cáo T.

+ 01 xe máy biển số 51H4-8329 thu giữ của Thái. Qua kiểm tra xe máy phát hiện một máy tính bảng màu trắng, là của T. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh xe do Trần Thị Hiên đứng tên chủ sở hữu. Bà Hiên khai nhận bán xe qua nhiều người. Sau đó, Trần Sơn Bình (là anh Trần Sơn T) mua về sử dụng. Đến năm 2016, anh Bình chết để lại xe cho ông Trần Chí Dân (cha bị cáo T) sử dụng. Ông để xe tại nhà và Thái sử dụng đi lại. Cơ quan điều tra Công an Quận 11 ra quyết định xử lý vật chứng trả xe trên cho ông Trần Chí Dân do không có liên quan đến vụ án.

Bản cáo trạng số: 47/Ctr-VKS ngày 30 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã truy tố các bị cáo Trần Sơn T, Võ Quốc Trung N về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thừa nhận: Hành vi phạm tội đúng như bản Cáo trạng đã nêu, cụ thể: Vào khoảng 16 giờ 10 phút ngày 24/10/2017, Nam đến phòng cho thuê Dạ Lan tìm T hỏi mua ma túy nhưng không gặp T nên ngồi chờ dưới quầy lễ tân. Một lúc sau, Dương Chí Tài cũng đến chờ T để mua ma túy. Khi T đến dẫn cả hai lên phòng 203, N đứng ngoài chờ thì T nghe điện thoại của T1 gọi hỏi mua một gói ma túy đá với giá 300.000 đồng. T đưa 01 gói ma túy cho N nhờ mang xuống giao cho T1 tại trước số 32 đường 16 Cư xá Lữ Gia, Phường 15, Quận 11 (đối diện phòng cho thuê Dạ Lan) và lấy 300.000 đồng. Khi N xuống gặp và giao cho T1 01 gói ma túy đá, nhận 300.000 đồng từ T1 thì bắt quả tang như trên..

Trong phần luận tội, sau khi đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 kiểm tra toàn diện các chứng cứ của vụ án, kiểm tra các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và đã kết luận có đủ căn cứ để truy tố và xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) như Cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thấy rõ hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải, thật thà khai báo.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm b Khoản 2, 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) xử phạt bị cáo Trần Sơn T mức án từ 08 (tám) đến 09 (chín) năm tù; Phạt tiền bị cáo số tiền từ 5.000.000đồng đến 10.000.000đồng. Đề nghị áp dụng điểm b Khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) xử phạt bị cáo Võ Quốc Trung N mức án từ 07 (bảy) đến 08 (tám) năm tù.

Xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

Tịch thu tiêu hủy: 03 gói niêm phong, ghi vụ số 1690; 01 kẹp gắp, 20 vỏ túi nylon nhỏ, 01 kéo, 01 quẹt gas đã qua sử dụng, 01 cuộn băng keo dán màu đen nhỏ, 01 nỏ (dụng cụ sử dụng ma túy); 01 ống thủy tinh có đầu phểu tròn, 02 ống nhựa (loại ống hút nước giải khát) hàn kín một đầu, đầu còn lại cắt nhọn; 05 gói nylon không chứa gì.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 600.000đồng và số tiền 5.500.000đ, 01 điện thoại OPPO màu trắng, 01 điện thoại không rõ nhãn hiệu, màu trắng đã bị bể màn hình của bị cáo N; chiếc điện thoại di dộng hiệu Nokia

Trả lại cho bị cáo T số tiền 1.200.000đồng và 01 máy tính bảng màu trắng.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội:

Vào lúc 16 giờ 40 phút ngày 24/10/2017, tại trước số 32 đường 16 Cư xá Lữ Gia, Phường 15, Quận 11, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 11 bắt quả tang Võ Quốc Trung N có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy có khối lượng 0,2215g, là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine cho Hồ Hoài T1. Qua điều tra, xác định Võ Quốc Trung N đã nhiều lần nhận ma túy từ Trần Sơn T để bán cho Hồ Hoài T1 vào các ngày 10/10/2017 và ngày 24/10/2017. Thái trực tiếp bán cho Thanh vào ngày 23/10/2017. Ngoài việc bán ma túy cho Thanh, Thái còn nhiều lần bán ma túy cho Võ Quốc Trung N và Dương Chí Tài tại phòng trọ Dạ Lan. Toàn bộ số ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, có tổng khối lượng là 8,3388 gam mà Cơ quan điều tra đã thu giữ được là của bị can Thái, để bán cho những đối tượng nghiện.

Hành vi của các bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy, tiền chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Do đó, các bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Về tình tiết giảm nhẹ: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Xét bị cáo Trần Sơn T đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần cho nhiều đối tượng, đã thu lợi bất chính từ việc phạm tội này số tiền 5.500.000đồng nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T là phạt tiền với số tiền là 10.000.000đồng. Riêng đối vói vị cáo Võ Quốc Trung N, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn, không còn tài sản nào khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo N.

Đối với Dương Chí Tài, ngoài lời khai của Tài không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh hành vi mua bán ma túy của Tài nên chưa  đủ căn cứ để xử lý, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Dương Chí Tài về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Cơ quan điều tra Công an Quận 11 ra quyết xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng đối với Hồ Hoài T1, Dương Chí Tài về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với đối tượng Dũng bán ma túy cho bị cáo T, chưa rõ lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ sẽ xử lý sau.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 03 gói niêm phong, ghi vụ số 1690; 01 kẹp gắp, 20 vỏ túi nylon nhỏ, 01 kéo, 01 quẹt gas đã qua sử dụng, 01 cuộn băng keo dán màu đen nhỏ, 01 nỏ (dụng cụ sử dụng ma túy); 01 ống thủy tinh có đầu phểu tròn, 02 ống nhựa (loại ống hút nước giải khát) hàn kín một đầu, đầu còn lại cắt nhọn; 05 gói nylon không chứa gì.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 600.000đồng và số tiền 5.500.000đ, 01 điện thoại OPPO màu trắng, 01 điện thoại không rõ nhãn hiệu, màu trắng đã bị bể màn hình của bị cáo N; chiếc điện thoại di dộng hiệu Nokia

Trả lại cho bị cáo T số tiền 1.200.000đồng và 01 máy tính bảng màu trắng. Về án phí: Mỗi Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Các Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 194, điểm p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009);

Tuyên bố bị cáo Trần Sơn T, Võ Quốc Trung N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Sơn T 09 (chín) năm tù, thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày 25/10/2017.

Xử phạt bị cáo Võ Quốc Trung N 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày 24/10/2017.

Căn cứ vào Khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009);

Phạt tiền bị cáo T số tiền: 10.000.000 (Mười triệu) đồng. Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 03 gói niêm phong, ghi vụ số 1690; 01 kẹp gắp, 20 vỏ túi nylon nhỏ, 01 kéo, 01 quẹt gas đã qua sử dụng, 01 cuộn băng keo dán màu đen nhỏ, 01 nỏ (dụng cụ sử dụng ma túy); 01 ống thủy tinh có đầu phểu tròn, 02 ống nhựa (loại ống hút nước giải khát) hàn kín một đầu, đầu còn lại cắt nhọn; 05 vỏ gói nylon.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng và số tiền 5.500.000 (Năm triệu năm trăm nghìn) đồng, 01 điện thoại OPPO màu trắng, 01 điện thoại không rõ nhãn hiệu, màu trắng đã bị bể màn hình; chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu đen.

Trả lại cho bị cáo T số tiền 1.200.000đồng (nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án) và 01 máy tính bảng màu trắng.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 255/LNK-MT ngày 30/10/2017).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2018/HS-ST ngày 24/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về