Bản án 48/2018/HS-ST ngày 04/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C-THÀNH P HỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 48/2018/HS-ST NGÀY 04/04/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32b/ 2018/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

1. Bị cáo Lê Văn K, sinh năm: 1978; Nơi sinh, nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị T: SN 1946; có vợ là Nguyễn Thị T và 03 con; tiền án,tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 22/11/2017 đến ngày 01/12/2017 chuyển tạm giam, hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam số 02, Công an TP Hà Nội ( tại phiên có mặt).

2. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Đinh Hoàng Tr, sinh năm 1993; HKTT và cư trú tại: Thôn M, xã H, huyện C, thành phố Hà Nội (tại phiên tòa vắng mặt).

3. Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1998; HKTT và cư trú tại:

Thôn G, Xã TXT, huyện C, thành phố Hà Nội (tại phiên tòa vắng mặt).

- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1985; HKTT và cư trú: Thôn Đ, xã NPT, huyện C, thành phố Hà Nội (tại phiên tòa vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 22/11/2017, Lê Văn K đang ở nhà tại Thôn N, xã T, huyện C, thành phố Hà Nội thì nhận được điện thoại của Đinh Hoàng Tr (SN 1993, ở thôn M, xã H) hỏi mua của K 02 gói ma túy loại Hêroin với giá 400.000đ. K đồng ý bán và hẹn Tr đến khu vực bờ đê thuộc Thôn N, xã T, huyện C gần khu vực nhà K để giao dịch mua bán ma túy. Khoảng 13h45 phút cùng ngày, Tr đến điểm hẹn gặp K, như đã thỏa thuận, Tr đưa 400.000đ cho K để mua ma túy. K nhận tiền và đưa 02 gói Hêroin cho Tr, khi Tr vừa nhận 02 gói Hêroin thì Công an huyện C phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ trên tay Đinh Hoàng Tr 02 gói giấy màu vàng đều được bọc ngoài bằng ni long màu đen bên trong đều có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy Hêroin; thu của K 400.000đồng; thu 02 điện thoại di động (của K và Tr) vỏ màu đen, đã qua sử dụng ; 

Quá trình điều tra, Lê Văn K còn khai nhận: Khoảng 10giờ ngày 21/11/2017, tại nhà Lê Văn K ở Thôn N, xã T, huyện C, thành phố Hà Nội Lê Văn K đã bán 01 gói ma túy loại Heroin với giá là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) cho Nguyễn Văn T, SN 1981 và Nguyễn Văn O, SN 1976 đều ở thôn G, Xã TXT, huyện C, thành phố Hà Nội. Bị cáo K sử dụng 200.000đ để mua ma túy hết. Gói Hêroin mua được của K, T và O đã sử dụng hết.

Tại kết luận giám định số: 6739/KLGĐ ngày 01/12/2017, do Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hà Nội kết luận:“Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy màu vàng, bọc ngoài bằng ni long màu đen đều là ma túy loại Heroin, tổng trọng lượng: 0,051 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Lê Văn K khai nhận toàn bộ hành vi giống như nội dung Cáo trạng. Bị cáo xác định hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Lời khai của Đinh Hoàng Tr tại cơ quan điều tra Công an huyện Chương Mỹ thừa nhận trưa ngày 22/11/2017 có gọi điện thoại từ điện thoại Nokia số 0966759026 của Tr cho Lê Văn K có số điện thoại 0961572771 để mua 400.000đ ma túy Heroin, sau khi thỏa thuận K và Tr hẹn gặp tại khu vực bờ đê thuộc Thôn N, xã T, huyện Chương Mỹ để giao nhận ma túy, khoảng13 giờ 45 phút ngày 22/11/2017 bị cáo và Tr sau khi giao nhận xong thì bị Công an huyện Chương Mỹ bắt quả tang thu giữ tiền, ma túy và 2 điện thoại của K và Tr.

Tại bản Cáo trạng số 28/VKS-HS ngày 06/3/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ đã truy tố Lê Văn K về tội : “ Mua bán trái phép chất ma túy”,quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p, o khoản 1 Điều 46; điểm a,b,c khoản 1 Điều 41 Bộ Luật hình sự năm 1999; điểm a,b,c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

Tôi danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn K phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Lê Văn K từ 07 năm đến 8 năm tù thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,051 gam Heroin, tịch thu sung quỹ Nhà Nước 400.000đ, truy thu của bị cáo K số tiền 200.000đ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi phạm tội, điều luật áp dụng: Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra Công an huyện Chương Mỹ và tại phiên tòa, lời khai người làm chứng, người liên quan, Kết luận giám định có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận:

Trong hai ngày 21/11/2017 và 22/11/2017, tại Thôn N, xã T, huyện Chương Mỹ,TP Hà Nội, Lê Văn K đã có hành vi 02 lần bán trái phép chất ma túy là Heroin để thu lời bất chính: Lần 1 bán cho Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn O một gói Hêroin với giá 200.000đồng; lần 2 bán trái phép 0,051gam Hêroin với giá 400.000đồng cho Đinh Hoàng Tr. Tổng số tiền thu lời bất chính là 600.000đồng, Công an huyện Chương Mỹ đã thu giữ 400.000đ còn 200.000đ chưa thu giữ.

Hành vi mua bán trái phép ma túy của bị cáo Lê Văn K là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma tuý; xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, làm sa sút kinh tế gia đình là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 ( nay là điểm khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015).

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Khi quyết định hình phạt Tòa xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Văn K đều thành khẩn khai báo, khi bị cáo bị bắt quả tang hành vi mua bán trái phép ma túy ngày 22/11/2017 bị cáo đã khai nhận hành vi mua bán trái phép ma túy ngày 21/11/2017 được coi là tự thú nên bị cáo được hưởng tình tiết theo quy định tại điểm p, o khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo K.

Căn cứ vào tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về vật chứng: Đối với 0,051 gam Heroin đựng trong phong bì niêm phong có chữ ký của Giám định viên Phạm Đình Đạo, Đinh Hoàng Tr, điểm chỉ của bị cáo là vật cấm lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy; 02 điện thoại di động loại Nokia 110i màu trắng đen và Nokia 1208 màu xanh là công cụ phương tiện phạm tội và số tiền 400.000đ do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ Nhà Nước. Truy thu của bị cáo số tiền 200.000đ tiền thu lời bất chính do bán ma túy ngày 21/11/2017.

Việc xử lý vật chứng theo quy định tại điểm a,b, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với Đinh Hoàng Tr, Nguyễn Văn T Công an huyện Chương Mỹ đã ra Quyết định xử phạt hành chính theo khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/NĐ - CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ là đúng pháp luật.

Đối với Nguyễn Văn O đang là bị can trong vụ án: “Mua bán trái phép chất ma túy” xảy ra ngày 24/11/2017, tại thôn G, Xã TXT, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội nên Cơ quan điều tra không đề cập hình thức xử lý đối với Oanh trong vụ án này.

[2] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chương Mỹ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ, của Điều tra viên, Kiểm sát viên:Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.

Về án phí: Bị cáo tuyên có tội phải chịu án phí theo qui định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí và Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 về án phí lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ: điểm b Khoản 2 Điều 194; điểm p, o khoản 1 Điều 46; điểm a, b, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999. Điểm a,b khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Luật phí, lệ phí. Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

2.Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn K phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

3.Xử phạt: bị cáo Lê Văn K 07 ( bảy) năm 6 (sáu) tháng tù tính từ ngày tạm giữ 22/11/2017.

4. Vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 0,051 gam Heroin đựng trong phong bì niêm phong có chữ ký của Giám định viên Phạm Đình Đạo, người có quyền lợi liên quan Đinh Hoàng Tr, điểm chỉ của bị cáo. Tịch thu sung quỹ Nhà Nước: số tiền 400.000đ (đã được nộp tiền vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C số 39490.10.52753.00000tại Kho bạc huyện C); 01 điện thoại di động loại Nokia 110i màu trắng đen và 01 chiếc điện thoại Nokia 1208 màu xanh. Truy thu của bị cáo Lê Văn K số tiền 200.000đ để sung quỹ Nhà Nước.

( Vật chứng đã được bàn giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện C theo biên bản bàn giao ngày 07/3/2018 giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện C, Công an huyện C )

5.Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 48/2018/HS-ST ngày 04/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:48/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về