Bản án 478/2019/HS-PT ngày 22/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 478/2019/HS-PT NGÀY 22/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 315/2019/TLPT-HS ngày 19 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo Nguyễn Văn M về tội “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn M đối với bản án hình sự sơ thẩm số Bản án số: 151/2019/HS-ST ngày 10/05/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 659/2019/QĐPT-HS ngày 24 tháng 7 năm 2019.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn M (tên gọi khác Nam); Giới tính: Nam; Sinh năm: 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: 324A/4 TVK, Phường 3, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn M1 và bà Nguyễn Thị Th; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: Tòa án nhân dân Quận 8 xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (bản án số 409/2009/HSST ngày 23/9/2009). Tòa án nhân dân huyện BC xử phạt 08 năm tù về tội “Cướp tài sản” (bản án số 59/2012/HSST ngày 20/3/2012). Chấp hành xong hình phạt tù giam ngày 27/01/2018, chưa thi hành phần án phí. Bị bắt, tạm giam ngày 13/7/2018 (Có mặt).

Bị hại:

1/ Ông Cao xuân Mạnh T, sinh năm 1982.

Nơi tạm trú: 100/35/2 BMT, phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh

2/ Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1970.

Nơi tạm trú: B2/50/1 ấp 2, xã ĐP, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Ông Trần Văn M2, sinh năm 1951.

Nơi cư trú: số 27 đường số 10, khu dân cư tổ 13, ấp 5, xã PP, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh.

4/ Bà Đỗ Thị Kim S, sinh năm 1972 và ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1972.

Nơi thường trú: 823 PTH, Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Tấn Ph, sinh năm 1972

Nơi cư trú: 11/2 TVĐ, Phường 9, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Hồng Th, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng nghị hoặc liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 30 phút ngày 11/7/2018, tại trước Khu vườn kiểng B3, tổ 118, ấp 2A, xã BH, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh. Do nghi vấn có 02 đối tượng bán xe gian nên trinh sát Phòng Cảnh sát hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Công an xã BH, huyện BC tiến hành kiểm tra và mời các đối tượng Nguyễn Hồng Th và Lê Trọng Ng cùng 02 xe gắn máy hiệu Wave gắn biển số 59Z1-060.37 và Wave màu trắng gắn biển số 59U1-144.86 mà các đối tượng sử dụng về làm việc. Tại Cơ quan Công an, Th khai nhận: Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2018 đến tháng 7/2018, Th và M hành phố không người trông coi hoặc sơ hở trong việc quản lý tài sản, cả hai đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp xe gắn máy đem bán lấy tiền tiêu xài, cụ thể:

Vụ thứ 1:

Khong 20 giờ ngày 14/5/2018, M điều khiển xe Wave màu đỏ (không rõ biển số) qua nhà rủ Th đi trộm cắp xe máy, Th đồng ý. M điều khiển chiếc xe trên chở Th đi lòng vòng trên các tuyến đường. Khi đến trước nhà số 100/35/2 BMT, Phường 5, Quận 8 Th phát hiện 01 chiếc xe Wave màu đen, biển số 59F1-575.60 trước cửa nhà không người trông coi, M dừng xe đứng ngoài cảnh giới, còn Th đi vào dùng đoản bẻ khóa lấy trộm chiếc xe trên điều khiển tẩu thoát. Sau đó, Th tháo biển số 59F1-575.60 của chiếc xe này và thay biển số 59Z1-060.37 của N là bạn ngoài xã hội (không rõ lai lịch, địa chỉ) cho M gắn vào. Th đưa 1.000.000 đồng cho M, còn Thành l chiếc xe này để sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp đến khi bị bắt.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 5607/KL-HĐĐGTS ngày 17/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: “chiếc xe Wave biển số 59F1-575.60 trị giá là 10.070.000 đồng”.

Qua xác minh được biết: Số khung, số máy của xe gắn máy loại Wave, biển số 59Z1-060.37 có biển số thật là 54F2-2217, đã sang tên và đăng ký biển số mới là 59F1-575.60 do anh Nguyễn Tấn Ph đứng tên chủ sở hữu giúp cho cháu ruột là anh Cao xuân Mạnh T. Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 14/5/2018, anh T để xe này tại trước số nhà 100/35/2 BMT, Phường 5, Quận 8 thì bị mất trộm. Do bận công việc, đến ngày 12/7/2018, anh T mới đến Công an Phường 5, Quận 8 trình báo sự việc trên.

Riêng biển số 59Z1-060.37 là của xe máy loại Sirius, do chị Trần Thị Thúy Ph1 đứng tên chủ sở hữu. Qua xác minh tại Công an xã NĐ, huyện NB, được biết: chiếc xe này đã bị mất trộm vào khoảng tháng 5/2018 tại khu vực ấp 4, xã NĐ, huyện NB, bị hại không trình báo. Hiện chị Ph1 không có mặt tại địa phương, không rõ đang ở đâu, cơ quan điều tra đã đăng báo truy tìm nhưng chưa ghi được lời khai của chị Ph1 để làm rõ.

Vụ thứ 2:

Khong tháng 6/2018, Th và M cùng thực hiện trộm được 01 xe Airblade biển số 59N2-652.68 tại địa chỉ B2/50/1 ấp 2 xã ĐP, huyện BC, sau đó bán cho tên H1 (không rõ lai lịch) với giá 7.000.000 đồng, Th và M mỗi người hưởng lợi số tiền là 3.500.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được chiếc xe này. Tiến hành cho Th chỉ điểm, kết quả: Th xác định đã cùng đồng bọn trộm chiếc xe nêu trên tại địa chỉ B2/50/1 ấp 2 xã ĐP, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh.

Kết quả xác minh, xác định: Chị Nguyễn Thị B là chủ nhà trên và là chủ sỡ hữu đối với xe máy Airblade biển số 59N2-652.68 .Vào khoảng 13 giờ ngày 05/6/2018, chị B dựng chiếc xe trên trong phòng khách rồi đi ngủ. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi ngủ dậy thì phát hiện mất xe. Do bận việc nên ngày 16/07/2018, chị B đã đến Công an xã ĐP, huyện BC trình báo mất trộm. Hiện hồ sơ vụ việc đã được chuyển tiếp cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Hồ Chí Minh điều tra.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 8044/KL-HĐĐGTS ngày 26/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: “chiếc xe Airblade biển số 59N2-652.68 trị giá là 32.205.000 đồng”.

Vụ thứ 3:

Ngày 06/7/2018, Th trộm cắp được 01 xe Future Neo biển số 51N3-7651 tại khu vực đoạn bờ kè ngã ba Đường số 5 và Rạch BL ấp 5, xã PP, huyện BC, đem bán cho 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá 2.000.000 đồng và đã sử dụng hết vào việc tiêu xài cá nhân. Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được chiếc xe. Kết quả chỉ điểm: Th xác định tại khu vực đoạn bờ kè ngã ba Đường số 5 và Rạch BL ấp 5 xã PP, huyện BC là nơi Th đã trộm chiếc xe nêu trên.

Qua xác minh, xe Future Neo biển số 51N3-7651 do anh Trần Văn M2 đứng tên chủ sở hữu. Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 06/7/2018, anh M2 điều khiển xe trên đến khu vực đoạn bờ kè ngã ba đường số 5 và Rạch BL ấp 5, xã PP, huyện BC rồi dựng xe ở lề đường, anh M2 đi xuống rạch kéo rác, khi quay lại thì phát hiện xe đã bị mất. Đến ngày 13/7/2018, anh M2 đã đến Công an xã PP, huyện BC trình báo. Hiện hồ sơ vụ án đã chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh nhập điều tra xử lý chung.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 8044/KL-HĐĐGTS ngày 26/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: “chiếc xe Future Neo biển số 51N3-7651 trị giá là 19.475.000 đồng”.

Vụ thứ 4:

Khong 08 giờ ngày 11/7/2018, Th điều khiển xe Wave biển số 59Z1-060.37 đến nhà M thì gặp M đang sửa xe Dream biển số 54M1-5838, Thành rủ M đi trộm cắp tài sản thì M đồng ý. Th đưa cho M 01 đoản bẻ khóa mà Th đã chuẩn bị từ trước, Th điều khiển xe Wave biển số 59Z1-060.37 chở M ngồi sau và chạy qua nhiều tuyến đường trên địa bàn huyện BC. Đến 10 giờ cùng ngày, khi đến trước nhà số E15/338B ấp 5, xã PP, huyện BC thì Th phát hiện 01 xe Wave màu trắng, biển số 59L2-023.36 đang dựng trước nhà không người trông coi, Th liền dừng xe máy, M xuống xe đi bộ đến chiếc xe trên và dùng đoản bẻ khóa rồi điều khiển chạy về nhà của M. Còn Th điều khiển xe Wave biển số 59Z1-060.37 về sau.

Tại đây, Th tháo biển số 59L2-023.36 của xe này ra và gắn biển số 59U1-144.86 vào chiếc xe vừa trộm được. Sau đó, Th điều khiển xe Wave biển số 59Z1-060.37 qua nhà Lê Trọng Ng tại khu 34, tổ 56, ấp 1A, xã BH, huyện BC nhờ Ng tìm người tiêu thụ, thỏa thuận nếu bán được sẽ cho Nghĩa tiền công và tùy vào việc bán xe được nhiều hay ít thì được Ng đồng ý. Sau đó, Ng gọi điện thoại cho M mang xe Wave màu trắng đã gắn biển số 59U1-144.86 vừa trộm được qua nhà của Nghĩa để đem đi tiêu thụ. Khi M điều khiển xe này chở Nghĩa ngồi sau đem đi tiêu thụ thì có hẹn gặp Th trên đường đi, cả 3 cùng chạy xe đưa M về nhà.

Sau đó, Ng điều khiển xe Wave màu trắng gắn biển số 59U1-144.86, Th điều khiển xe Wave biển số 59Z1-060.37 đi tìm người tiêu thụ. Khi cả hai đến trước Khu vườn kiểng B3, tổ 118, ấp 2A, xã BH, huyện BC thì bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp Công an xã BH, huyện BC tiến hành kiểm tra và thu giữ của Ng xe Wave màu trắng biển số 59U1-144.86, thu giữ của Th xe Wave biển số 59Z1-060.3.

Bản kết luận định giá tài sản số: 5607/KL-HĐĐGTS ngày 17/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: “chiếc xe Wave biển số 59L2-023.36 trị giá là 12.413.000 đồng”.

Kết quả xác minh: số khung, số máy xe Wave màu trắng biển số 59U1-144.86 có biển số thật là 59L2-023.36, do chị Đỗ Thị Kim S đứng tên chủ sở hữu và anh Nguyễn Văn H là chồng chị S là ngưởi sử dụng. Vào lúc 10 giờ ngày 11/7/2018, anh H để xe trước nhà E15/338B ấp 5, xã PP, huyện BC và bị mất trộm. Sau đó, anh H có đến Công an xã PP, huyện BC trình báo.

Đi với biển số xe 59U1-144.86, kết quả xác minh là xe Attila do bà Huỳnh Thị Kim H2 đứng tên chủ sở hữu. Hiện bà H2 không cư trú tại địa phương, đi đâu không rõ nên chưa ghi được lời khai, bà H2 không trình báo mất trộm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã đăng báo truy tìm nhưng đến nay vẫn chưa tìm được bà H2 để ghi lời khai làm rõ.

Ngoài ra, ngày 11/7/2018, các trinh sát Phòng Cảnh sát hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp cùng Công an xã BH, huyện BC kiểm tra hành chính nơi M thuê ở tại nhà trọ 7 chùa, ấp 1A, xã BH, huyện BC và thu giữ của M 01 chiếc xe Dream, gắn biển số 54M1-5838 có SM: 152FMH-00004612; SK: NJ100200003007, 2 biển số xe 59L2-023.36, 71S5-3263 và mời M về làm.

Tại Cơ quan điều tra M thừa nhận cùng Thành thực hiện 03 vụ trộm cắp (vụ 1, 2, 4) như nội dung nêu trên.

- Đối với chiếc xe Dream, gắn biển số 54M1-5838, M khai: Khoảng tháng 05/2018, M mua chiếc xe Dream này của đối tượng tên N (không rõ lai lịch), không có giấy tờ xe với giá 1.500.000 đồng dùng làm phương tiện đi lại, còn biển số 71S5-3263 thì M được N (không rõ lai lịch) cho.

Kết quả xác minh: Biển số 54M1-5838 là của xe Dream, có SM: A08E-1026154, SK: 022074 do ông Nguyễn Xuân Nh đứng tên chủ sở hữu. Vào ngày 21/11/2017, ông Nh bị mất trộm tại ấp 2, đường TVĐ , xã TN, huyện BC, sau đó đến Công an xã TN, huyện BC trình báo sự việc trên. Tại bản kết luận giám định số: 7228/KLGĐ-X(Đ3) ngày 17/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hồ Chí Minh kết luận: “Chiếc xe máy biển số 54M1-5838 có SM: 152FMH- 00004612, SK: NJ100200003007 nguyên thủy không thay đổi” (bút lục 347).

Kết quả xác minh tại Phòng cảnh sát giao thông Công an TP. Hồ Chí Minh được biết: “chiếc xe có số máy: 152FMH-00004612, số khung: NJ100200003007 không có trong cơ sở dữ liệu lưu trữ” Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đăng báo truy tìm chủ sở hữu chiếc xe có số khung, số máy nêu trên nhưng đến nay chưa có kết quả.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 5607/KL-HĐĐGTS ngày 17/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp thành phố kết luận: “Trên cơ sở cơ quan điều tra chỉ xác định được nhãn hiệu mà không xác định cụ thể các thông số của xe, do đó không đủ cơ sở thu thập thông tin nên từ chối định giá”.

- Đối với biển số xe 71S5-3263, qua xác minh được biết: là biển số của xe Wave, có SM: 9E-6606149, SK: 16Y-606088 do anh Lê Văn S1 đứng tên chủ sở hữu. Qua xác minh, anh S1 không có mặt tại địa phương, đi đâu không rõ, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đăng báo truy tìm nhưng chưa ghi được lời khai để làm rõ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 151/2019/HS-ST ngày 10 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng Th về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M về tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hồng Th 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/7/2018.

Bị cáo Nguyễn Văn M 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/7/2018.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 23/5/2019, bị cáo Nguyễn Văn M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo M giữ nguyên kháng cáo và trình bày: Xác định cùng với Th thực hiện 3 vụ trộm cắp tài sản như nội dung của bản án sơ thẩm. Trong các lần trộm cắp, có lần M rủ, có lần Th rủ. Tuy nhiên, hình phạt đối với bị cáo là quá nặng do chỉ tham gia 3 vụ. Đề nghị giảm nhẹ hình phạt.

Đi diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến: Hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận cùng với Th thực hiện 3 vụ trộm cắp tài sản, theo kết quả định giá thì tài sản trộm cắp trị giá 54.688.000 đồng. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và hình phạt 5 năm tù đối với bị cáo là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bị cáo Nguyễn Văn M kháng cáo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự nên vụ án được xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có căn cứ xác định: Từ ngày 14/5/2018 đến ngày 11/7/2018, bị cáo M cùng với Nguyễn Hồng Th tham gia thực hiện 3 vụ trộm cắp tài sản. 54.688.000 đồng.

[3] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo M mới chấp hành xong hình phạt 8 năm tù về tội “Cướp tài sản” ngày 27/01/2018, lại tiếp tục phạm tội mới. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo M về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo không cung cấp tình tiết giảm nhẹ khác nên kháng cáo của bị cáo M không được chấp nhận.

[4] Vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất ý kiến của Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo M phải chịu án phí phúc thẩm. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn M.

2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 151/2019/HS-ST ngày 10 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Căn cứ điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M về tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn M 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/7/2018.

Tiếp tục giam giữ bị cáo để bảo đảm thi hành án.

4. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

5. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 22 tháng 8 năm 2019)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 478/2019/HS-PT ngày 22/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:478/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về