Bản án 475/2019/HSPT ngày 04/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 475/2019/HSPT NGÀY 04/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 370/2019/HSPT ngày 31/5/2019 đối với bị cáo Nguyễn Trọng Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2019/HSST ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.

Bị cáo kháng cáo: Nguyễn Trọng Đ, sinh 1968; Giới tính: Nam; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn Cấn Hạ, xã Cấn Hữu, huyện Quốc Oai, Hà Nội; Trình độ văn hoá: 10/10; Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Khắc T (chết); Con bà: Bùi Thị T1 (chết); Danh chỉ bản số 000000151 lập ngày 12/02/2019 tại Công an quận Nam Từ Liêm;

Nhân thân:

- Bản án số 294/2012/HSST ngày 26/4/2012 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Hà Nội, xử 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 52/2016/HSST ngày 29/01/2016 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Hà Nội, xử 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 10/8/2016.

Bị cáo bị bắt từ ngày 29/01/2019 đến nay, có mặt.

Người bị hại: Chị Đinh Thị O, sinh 1993. Địa chỉ: Ấp Thái Dũng, xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước (Vắng mặt).

Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Xuân Đ1 không kháng cáo, Toà không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm thì vụ án có nội D như sau:

Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 29/01/2019, Nguyễn Trọng Đ rủ Nguyễn Xuân Đ1, đi quanh khu vực Bến xe Mỹ Đình xem có ai sơ hở để trộm cắp tài sản. Cả hai bàn bạc thống nhất, Nguyễn Xuân Đ1 sẽ mời, lôi kéo khách để mất tập trung, sau đó Nguyễn Trọng Đ lợi dụng sơ hở móc túi trộm cắp tài sản, rồi chia nhau hưởng lợi. Đến khoảng 4h 40’ cùng ngày, Trọng Đ và Xuân Đ1 đi đến số nhà 160 đường Trần Bình, phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội, phát hiện thấy chị Đinh Thị O (SN: 1993, NKTT: ấp Thái Dũng, xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước) và bà Nguyễn Thị X (SN: 1969) mẹ đẻ chị O xuống xe taxi để bắt xe khách. Nguyễn Xuân Đ1 điều khiển xe máy Honda màu nâu, BKS: 29N8- 3599, giả vờ mời chị O đi xe ôm để đánh lạc hướng. Tiếp đó, Nguyễn Trọng Đ điều khiển xe máy Yamaha Jupiter màu xanh – trắng, BKS: 18P8-2063, áp sát bên phải chị O, dùng tay móc trộm chiếc điện thoại di động Vivo màu trắng, ốp màu vàng ở túi quần bên phải phía trước, để vào giỏ xe máy của mình rồi bỏ trốn. Đi được khoảng 50 mét, đến địa chỉ 119 đường Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Nguyễn Trọng Đ đưa chiếc điện thoại vừa trộm cắp được cho Nguyễn Xuân Đ1 giữ, vỏ ốp điện thoại bỏ vào giỏ xe của Nguyễn Xuân Đ1. Ngay sau đó, chị Đinh Thị O phát hiện bị mất điện thoại nên hô hoán. Cùng lúc này tổ Công tác Đội 5 Phòng Cảnh sát hình sự - Công an thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vực tại khu vực trên, đã bắt quả tang cùng vật chứng. Vật chứng thu giữ:

1. Thu giữ của Nguyễn Xuân Đ1: 01 điện thoại Vivo 1714 màu trắng, gắn sim số: 0353.431.546, vỏ ốp nhựa màu đen, viền vàng; 01 xe máy Yamaha Jupiter màu xanhh – trắng, biển kiểm soát: 18P8-2063, số máy: 5S01-32189, số khung: 5S01-32189.

2. Thu giữ của Nguyễn Trọng Đ: 01 xe máy Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát: 29N8-3599, số máy: 01009985, số khung: 112104606.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 126 ngày 31/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, xác định:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1714, số Imei 1: 865569034778850, số Imei 2: 865569034778843, đã qua sử dụng, hiện vẫn còn dùng được. Trị giá tài sản: 2.500.000 đồng.

- 01 chiếc ốp điện thoại di động màu xanh viền vàng, có nắp mở, đã qua sử dụng, hiện vẫn sử dụng được. Trị giá tài sản: 50.000 đồng.

- 01 sim điện thoại, thuê bao số 0353431546. Trị giá tài sản: 25.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản: 2.575.000 đồng.

Ngày 30/01/2019, Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã ra quyết định xử lý vật chứng số 45, trao trả cho chị Đinh Thị O: 01 chiếc điện thoại di động 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1714, 01 vỏ ốp nhựa điện thoại màu xanh, viền vàng. Chị O đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường về dân sự.

Đối với chiếc xe máy Honda Dream màu nâu, biển kiểm soát: 29N8 -3599: Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã tiến hành xác minh: đăng ký xe mang tên Nguyễn Đức S (trú tại 207 A4 TT NMCC số 1, Thượng Đình, Thanh Xuân, Hà Nội), anh S đã chết năm 2008. Chiếc xe máy trên được chị Nguyễn Thị Phương D (SN: 1976- NKTT: số 66 ngõ 8, Quang Trung, TDP số 8, Quang Trung, Hà Đông, Hà Nội) là bạn gái của Nguyễn Trọng Đ, mua lại của anh S từ năm 2007 với giá 3.000.000 đồng. Chị D cho Nguyễn Trọng Đ mượn chiếc xe trên để Đạt đi làm xe ôm hàng ngày. Chị D không biết Đ sử dụng xe làm phương tiện thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 21/3/2019, Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm ra quyết định xử lý vật chứng số 61, trao trả cho chị Nguyễn Thị Phương D chiếc xe máy trên. Chị D đã nhận lại và không có yêu cầu gì khác.

Đối với chiếc xe máy Yamaha Jupiter màu xanh – trắng, biển kiểm soát: 18P8-2063, Nguyễn Xuân Đ1 khai nhận: Đạt mượn chiếc xe máy của một người bạn xã hội tên T2 (không rõ nhân thân, lý lịch). Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh biển kiểm soát 18P8-2063: tên chủ xe là Nguyễn S Hải (trú tại Hải Đông, Hải Hậu, Nam Định), loại xe Atlantie, do Trung Quốc sản xuất, không trùng với chiếc xe máy Yamaha Jupiter đang tạm giữ; tiến hành xác minh qua số khung, số máy: xe đăng ký tên Phạm Huy D1 (trú tại số 111, tổ 7, Tân Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội), loại xe Yamaha Jupiter màu đỏ, không trùng màu với xe đang tạm giữ. Ngày 21/3/2019, Cơ quan điều tra ra quyết định tách tài liệu số 16 liên quan đến chiếc xe máy nêu trên để tiếp tục điều tra xác minh nguồn gốc chủ sở hữu.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Trọng Đ và Nguyễn Xuân Đ1 đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 80/2019/HSST ngày 22/4/2019 của Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội đã xử và quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1, Điều 173; Điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Đ 12(mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/01/2019.

Ngoài ra bản án còn tuyên các quyết định khác về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Xuân Đ1, án phí và quyền kháng cáo đối với những người tham gia tố tụng.

Không nhất trí với quyết định của án sơ thẩm, trong đơn kháng cáo đề ngày 31/5/2019, bị cáo Nguyễn Trọng Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tham gia phiên toà sau khi phân tích tính chất vụ án, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã kết luận:

Về hình thức: Kháng cáo của bị cáo là đúng về chủ thể kháng cáo và còn trong thời hạn kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản„ theo khoản 1, Điều 173- Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 355; điểm c, khoản 1, Điều 357- Bộ luật tố tụng hình sự, sửa án sơ thẩm, cụ thể: Áp dụng khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, Điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51- Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng Đ từ 08 đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hình thức: Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử không có người tham gia tố tụng nào khiếu nại về hành vi cũng như quyết định của người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đều là hợp pháp.

Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trọng Đ là còn trong thời hạn kháng cáo và đúng về chủ thể kháng cáo nên được chấp nhận.

[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận thực hiện các hành vi như án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp lời khai người bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Do vậy có đủ cơ sở để khẳng định:

Khoảng 04giờ 40 phút ngày 29/01/2019, tại khu vực địa chỉ số 160 đường Trần Bình, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Nguyễn Trọng Đ và Nguyễn Xuân Đ1 có hành vi lợi dụng sơ hở của chị Đinh Thị O, lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại Vivo 1714 màu trắng, vỏ ốp nhựa màu xanh viền vàng, gắn sim số 0353.431.546 của chị. Tổng trị giá tài sản Nguyễn Trọng Đ và Nguyễn Xuân Đ1 chiếm đoạt là: 2.725.000 đồng.

Do vậy việc Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về téi: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173- Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất vụ án, tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ như: hai bị cáo Nguyễn Trọng Đ và Nguyễn Xuân Đ1 có vai trò ngang nhau, bị cáo Nguyễn Trọng Đ không có tình tiết tăng nặng nhưng về nhân thân đã có hai tiền án, đã được xoá án, bị cáo đã thành khẩn khai báo xử phạt bị cáo mức án 12 tháng tù là phù hợp. Tại phiên toà hôm nay gia đình bị cáo có xuất trình một đơn có xác nhận của chính quyền địa phương xác nhận bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, bị cáo vẫn thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị không lớn nên có thể chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng đủ cải tạo giáo dục bị cáo và đảm bảo phòng ngừa chung.

[3] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1- Áp dụng điểm b, khoản 1 điều 355; điểm c, khoản 1, Điều 357- Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận một yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trọng Đ, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 80/2019/HSST ngày 22/04/2019 của Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, cụ thể:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1, Điều 173; Điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51- Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng Đ 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/01/2019.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136- Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 475/2019/HSPT ngày 04/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:475/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về