TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 472/2019/HC-PT NGÀY 18/07/2019 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
Ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý số 280/2018/TLPT-HC ngày 25 tháng 9 năm 2018 về việc: “Khiếu kiện QĐHC trong lĩnh vực đất đai”.
Do có kháng cáo của người khởi kiện đối với bản án hành chính sơ thẩm số 05/2017/HC-ST ngày 12 tháng 10 năm 2017 của Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh;
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 636/2018/QĐXX-PT ngày 18 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:
-Người khởi kiện: Bà Thạch Thị Sa D, sinh năm 1948;
Địa chỉ: Ấp C, xã Ph, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện bà Thạch Thị Sa D: Bà Thạch Thị Đ, sinh năm 1981;
Địa chỉ: Ấp C, xã Ph, huyện T, tỉnh Trà Vinh (có mặt).
-Người bị kiện:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Trà Vinh. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)
-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Thạch Thị V, sinh năm 1961;
Địa chỉ: Khóm 5, thị trấn T, H. T, tỉnh Trà Vinh. (có mặt)
2. Ông Thạch L (Thạch D1), sinh năm 1952;
Địa chỉ: Ấp Tr, xã L, huyện T, tỉnh Trà Vinh(có mặt)
3. Ông Thạch K, sinh năm 1957;
Địa chỉ: Ấp C, xã Ph, huyện T, tỉnh Trà Vinh. (có mặt)
4. Bà Thạch Thị S, sinh năm 1958;
Địa chỉ: Ấp C, xã Ph, huyện T, tỉnh Trà Vinh. (có mặt)
5. Ông Thạch Tr, sinh năm 1962;
Địa chỉ: Ấp N, xã T1, huyện T, tỉnh Trà Vinh. (có mặt)
6. Ông Thạch Tr1, sinh năm 1963;
Địa chỉ: Khóm 5, thị trấn T, H. T, tỉnh Trà Vinh. (có mặt)
7. Ông Thạch Thanh Ph, sinh năm 1987;
Địa chỉ: Khóm 5, thị trấn T, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
8. Bà Thạch Thị M, sinh năm 1988;
Địa chỉ: Khóm 5, thị trấn T, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Thạch Thanh Ph và bà Thạch Thị M: Bà Thạch Thị V, sinh năm 1961;
Địa chỉ: Khóm 5, thị trấn T, huyện T, tỉnh Trà Vinh.
9. Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1954;
Địa chỉ: đường B, Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. (Xin xét xử vắng mặt)
10. Ông Dương Minh T, sinh năm 1946;
Địa chỉ: Ấp Ng, xã Ng1, huyện T, tỉnh Trà Vinh. (Vắng mặt)
11. Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1969;
Địa chỉ: Ấp Ch, xã Ng1, huyện T, tỉnh Trà Vinh. (Xin xét xử vắng mặt)
-Người kháng cáo: Người khởi kiện – Bà Thạch Thị Sa D.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 12/02/2015 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện bà Thạch Thị Đ trình bày: Cha bà Thạch Thị Sa D là ông Thạch B, sinh năm 1925 (chết năm 2004) có phần đất diện tích là 1.000m2 tọa lạc tại Khóm 4, thị trấn T, huyện T, tỉnh Trà Vinh, đất có tứ cận như sau: Đông giáp xẻo rồi đến đất bà Thạch Thị H; Tây giáp lộ; Nam giáp sông; Bắc giáp bà Thạch Thị Q. Phần đất này từ năm 1967 ông Thạch B cho nhiều người ở nhờ, năm 1984 ông Thạch B về ấp C làm ruộng, cũng trong thời gian sau này ông Nguyễn Văn Th xin ở nhờ trên đất này và gọi ông Thạch B là cha nuôi, khi Nhà nước đo đất ông Nguyễn Văn Th không cho gia đình ông Thạch B biết và tự đăng ký tên mình vào phần đất của ông Thạch B.
Năm 1998 ông Thạch B cho con là ông Thạch Tr1 đi dọn cỏ thì phát hiện ông Nguyễn Văn Th cho ông Đinh Văn C1 thuê đất này đến năm 2000. Đến năm 2000 ông Thạch Tr1 đi dọn cỏ tiếp thì ông C và ông I lập biên bản và không cho ông Thạch Tr1 làm cỏ. Năm 2001 Ủy ban nhân dân thị trấn T mời gia đình ông Thạch B và ông Nguyễn Văn Th, ông Thạch Sa R đến hòa giải nhưng không Th.
Đến ngày 03/6/2011 bà Thạch Thị Sa D đến Ủy ban nhân dân thị trấn T đăng ký kê khai thì Ủy ban nhân dân thị trấn T trả lời đất đang tranh chấp nên không cho đăng ký. Ngày 10/4/2012 Ủy ban nhân dân huyện T mời bà Thạch Thị Sa D đến hòa giải, ông Nguyễn Văn Th có đưa ra tờ xác nhận ông Nguyễn Văn Th có mua bán đất với ông Thạch B vào ngày 20/4/1986, diện tích là 1.200m2, số tiền là 280 đồng là không đúng vì thực tế không có sự việc mua bán này.
Từ đó bà Thạch Thị Sa D không đồng ý với việc giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T tại Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 và của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh tại Quyết định số 1423/QĐ-UBND ngày 27/8/2014, nên bà Thạch Thị Sa D yêu cầu Tòa án hủy bỏ hai quyết định này.
Người đại diện theo pháp luật của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T, ông Trần Hoàng Khải xin giải quyết vắng mặt và có văn bản trình bày ý kiến như sau:
Phần đất mà bà Thạch Thị Sa D tranh chấp với ông Nguyễn Văn Th có nguồn gốc của ông Thạch B (cha ruột bà Thạch Thị Sa D). Khoảng năm 1986, ông Thạch B chuyển nhượng phần đất này cho ông Nguyễn Văn Th là có thật, vì qua xác minh được biết tại thời điểm chuyển nhượng có lập giấy tay, có nhờ người làm chứng và có sự xác nhận của Ban nhân dân ấp B, xã T lúc bấy giờ (ông Nguyễn Văn Y xác nhận). Sau khi nhận chuyển nhượng đất của ông Thạch B được vài năm thì ông Nguyễn Văn Th lại chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Thu H, rồi bà Nguyễn Thị Thu H lại chuyển nhượng tiếp cho ông Dương Minh T. Qua các lần chuyển nhượng trên thì các bên có liên quan đều thừa nhận và không có tranh chấp gì. Từ khi nhận chuyển nhượng đất thì ông Dương Minh T quản lý và sử dụng ổn định và đã kê khai vào năm 2000. Sau đó, ông Dương Minh T cho bà Trần Thị H1, ông Đinh Văn C1 thuê sử dụng nhưng không có sự cản trở từ phía gia đình bà Thạch Thị Sa D cho đến năm 2011. Việc ông Thạch B chuyển nhượng đất cho ông Nguyễn Văn Th vào khoảng năm 1986 mặc dù giấy tay không còn nhưng có nhiều người làm chứng về sự việc này, đến năm 2004 thì ông Thạch B chết, trong khoảng thời gian này thì ông Thạch B không khiếu nại hay tranh chấp gì liên quan đến phần đất trên. Việc bà Thạch Thị Sa D cho rằng năm 2011 các anh chị em bà có đơn gởi Ủy ban nhân dân thị trấn Tiểu Cẩn nhưng không được giải quyết, là do khi nhận được đơn của bà Thạch Thị Sa D, Ủy ban nhân dân thị trấn T có mời ông Nguyễn Văn Th để tổ chức hòa giải nhưng vì ông Nguyễn Văn Th đi làm ăn xa nên không về được. Đến ngày 06/5/2012, bà Thạch Thị Sa D tiếp tục gởi đơn đến Ủy ban nhân dân thị trấn T yêu cầu giải quyết tranh chấp đất với ông Nguyễn Văn Th. Sau khi nhận đơn, ngày 20/7/2012 Ủy ban nhân dân thị trấn T tổ chức hòa giải kết quả không Th và hồ sơ được chuyển đến Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T.
Ngày 22/01/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ban hành Quyết định số 232/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Thạch Thị Sa D với ông Nguyễn Văn Th, với nội dung không công nhận nội dung đơn yêu cầu của bà Thạch Thị Sa D về việc tranh chấp quyền sử dụng diện tích 788 m2, tại thửa 33, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại Khóm 4, thị trấn T, huyện T (Thực đo ngày 25/02/2013, diện tích là 768,5 m2 và sau khi Ủy ban nhân dân huyện huyện T thu hồi để nạo vét Kênh B, còn lại là 441,3 m2); công nhận quyền sử dụng đất cho ông Dương Minh T tại thửa 33, diện tích 768,5 m2, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại Khóm 4, thị trấn T, huyện T (Hiện nay, sau khi Ủy ban nhân dân huyện huyện T thu hồi để nạo vét Kênh B, còn lại là 441,3 m2); buộc hộ bà Thạch Thị V phải tháo dỡ nhà và các tài sản khác, giao trả diện tích đất đã chiếm lại cho hộ ông Dương Minh T quản lý, sử dụng. Qua kết quả giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T tại quyết định nêu trên bà Thạch Thị Sa D không thống nhất, nên đã khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Ngày 27/8/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định số 1423/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Thạch Thị Sa D. Tuy nhiên bà Thạch Thị Sa D không thống nhất với kết quả giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh nên đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh yêu cầu hủy hai Quyết định nêu trên. Đối với vụ việc này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện huyện T đã giải quyết theo đúng định của pháp luật, do đó vẫn giữ nguyên quan điểm giải quyết theo Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T.
Người đại diện theo pháp luật của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh, ông Đồng Văn L xin giải quyết vắng mặt và có văn bản trình bày ý kiến như sau:
Phần diện tích đất 768,5 m2, tuy có nguồn gốc của ông Thạch B (cha ruột bà Thạch Thị Sa D) nhưng qua kết quả xác minh, đối chiếu vụ việc, xác định khoảng năm 1986 ông Thạch B đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Th (xác nhận của những người chứng kiến tại thời điểm, những hộ cũng mua đất giáp cận đất ông Nguyễn Văn Th mua). Mặc dù việc chuyển nhượng không phù hợp theo quy định tại điểm 2 Mục III Quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước; tuy nhiên, việc mua bán là có diễn ra, phù hợp với nhu cầu cất nhà ở và làm ăn sinh sống của ông Nguyễn Văn Th. Căn cứ điểm 9 Mục 2 Thông tư số 55-ĐKTK ngày 05/11/1981 của Tổng cục Quản lý ruộng đất về việc hướng dẫn cách giải quyết các trường hợp sử dụng ruộng đất không hợp pháp, không hợp lý thì ông Nguyễn Văn Th được tiếp tục quản lý sử dụng phần đất trên. Nên bà Thạch Thị Sa D cho rằng phần đất tranh chấp là của cha bà (ông Thạch B) không có bán cho ai, cũng không nhận tiền bán đất của ai là không có cơ sở.
Việc bà Thạch Thị Sa D không đồng ý việc mua bán có giấy tay đã thất lạc và cho rằng các Tờ xác nhận của ông Nguyễn Văn Th lập lại sau này để chiếm lại đất, là không có cơ sở, bởi lẽ: Ông Nguyễn Văn Th làm mất giấy tay mua bán với ông Thạch B và có nhờ những người chứng kiến trước đây xác nhận lại, mục đích là để chứng minh việc mua bán của mình là có thật. Việc làm này của ông Nguyễn Văn Th không vi phạm pháp luật. Ông Nguyễn Văn Th sau khi mua đất đã tiến hành cất nhà để ở và mua bán trực canh trên diện tích 768,5 m2; sau đó, việc chuyển nhượng phần đất này qua nhiều người (bà Nguyễn Thị Thu H, ông Dương Minh T) cũng trực canh ổn định; trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến khi ông Thạch B chết (năm 2004) thì ông Thạch B và các con của ông cũng không có phát sinh khiếu nại, tranh chấp vấn đề gì liên quan đến phần đất này. Từ năm 1986 đến khi phát sinh tranh chấp (năm 2011), ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thu H và ông Dương Minh T thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế với Nhà nước và trực tiếp quản lý, sử dụng phần diện tích 768,5 m². Căn cứ Điều 49, Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 100 Luật Đất đai năm 2013, trường hợp sử dụng đất của ông Dương Minh T đủ điều kiện được xem xét để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 768,5 m2 (sau khi thu hồi đất làm Kênh, diện tích còn lại thực tế 441,3 m2). Vì vậy, gia đình bà Thạch Thị Sa D lấy lý do đất của cha mình, để tự ý cất nhà trên diện tích 768,5 m2, trong khi chưa có căn cứ pháp lý hợp pháp nào về quyền sử dụng đất từ ông Thạch B giao lại cho Bà; trong khi việc tranh chấp chưa được giải quyết dứt điểm nhưng gia đình bà Thạch Thị Sa D đã đến chiếm đất là vi phạm.
Việc giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T tại Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 là phù hợp, tuy nhiên cần bổ sung chủ thể bà Thạch Thị Sa D vào Điều 1 của quyết định về trách nhiệm phải tháo dỡ nhà và các tài sản khác, giao trả diện tích 441,3 m2 đã chiếm lại cho ông Dương Minh T quản lý, sử dụng; lý do bà Thạch Thị Sa D được ủy quyền theo Tờ ủy quyền ngày 19/10/2012. Từ cơ sở nêu trên, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh khẳng định việc giải quyết khiếu nại của bà Thạch Thị Sa D tại Quyết định số 1423/QĐ-UBND ngày 27/8/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là đúng quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Dương Minh T trình bày:
Phần đất hiện nay bà Thạch Thị Sa D tranh chấp với ông, trước đây ông Nguyễn Văn Th mua lại của ông Thạch B, sau khi mua thì ông Nguyễn Văn Th cải tạo đất để cất nhà ở và trồng trọt chăn nuôi, sau này ông Nguyễn Văn Th không ở nữa nên ông Nguyễn Văn Th sang lại cho bà Nguyễn Thị Thu H, sau đó bà Nguyễn Thị Thu H sang lại cho ông và ông có cho ông Đinh Văn C1 thuê canh tác, quá trình sử dụng thì gia đình bà Thạch Thị Sa D đến cất nhà ở trên phần đất này, ông có báo cho chính quyền địa phương giải quyết nhưng gia đình bà Thạch Thị Sa D vẫn cất nhà để ở. Từ đó Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T và Quyết định số 1423/QĐ-UBND ngày 27/8/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh giải quyết tranh chấp giữa gia đình ông và gia đình bà Thạch Thị Sa D là phù hợp, ông đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của bà Thạch Thị Sa D.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Th trình bày: Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của ông Thạch B, ông mua phần đất này của ông Thạch B vào ngày 20/4/1986 diện tích 1.200 m2 bằng 280 đồng tương đương 04 chỉ vàng 24K có làm giấy tay, có xác nhận của ông Nguyễn Văn Y Trưởng ban nhân dân ấp B và có ông Thạch Sa R, ông Thạch L(con ông Thạch B, đã chết) chứng kiến. Sau khi mua thì ông cất nhà để ở và canh tác đến năm 1990 thì ông sang lại phần đất này cho em ông là bà Nguyễn Thị Thu H bằng 12 chỉ vàng 24K, bà Nguyễn Thị Thu H tiếp tục ở và canh tác đến năm 1994 thì sang lại cho anh rễ ông là ông Dương Minh T. Do đó Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T và Quyết định số 1423/QĐ-UBND ngày 27/8/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh giải quyết giao phần đất tranh chấp cho ông Dương Minh T là phù hợp, nên ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Thạch Thị Sa D. Ông không có tranh chấp hay yêu cầu gì trong vụ kiện này và ông đề nghị Tòa án tiến hành giải quyết vắng mặt ông.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu H có lời trình bày giống như ông Nguyễn Văn Th, bà không có tranh chấp hay yêu cầu gì trong vụ kiện này và bà đề nghị Tòa án tiến hành giải quyết vắng mặt bà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thạch Thị V có lời trình bày và yêu cầu giống như người khởi kiện bà Thạch Thị Sa D.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Thạch Tr1, ông Thạch Tr, ông Thạch K, ông Thạch L(Thạch D1), bà Thạch Thị S trình bày: Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của ông Thạch B là cha của các ông bà, ông Thạch B cho ông Nguyễn Văn Th ở nhờ vào năm 1985 chỉ nói miệng với nhau chứ không có làm giấy tờ gì (ông Thạch B không có bán phần đất này cho ông Nguyễn Văn Th), ông Nguyễn Văn Th ở có cất một căn nhà lá, đến năm 1987 ông Nguyễn Văn Th giao lại cho bà Nguyễn Thị Thu H ở, khi năm 1992 khi phát hiện ông Đinh Văn C1 trồng kiển trên phần đất của gia đình của các ông bà, thì các ông bà mới biết ông Nguyễn Văn Th đã bán phần đất này cho ông Dương Minh T nên mới phát sinh tranh chấp. Do đó Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T và Quyết định số 1423/QĐ-UBND ngày 27/8/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh giải quyết giao phần đất tranh chấp cho ông Dương Minh T là không đúng. Trong vụ kiện này các ông bà không có yêu cầu hay tranh chấp gì mà để cho bà Thạch Thị Sa D yêu cầu.
Đối với bà Thạch Thị Q1, sinh năm 1951 (là vợ ông Thạch L1, ông L1 đã chết) có yêu cầu không tham gia tố tụng trong vụ kiện này và cũng không có tranh chấp gì đối với phần đất này.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 05/2017/HC-ST ngày 12 tháng 10 năm 2017, Toà án nhân dân tỉnh Trà Vinh đã quyết định:
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Thạch Thị Sa D về việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 22/01/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T và Quyết định số 1423/QĐ-UBND ngày 27/8/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 02/10/2018, bà Thạch Thị Sa D làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
*Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
-Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh:
Căn cứ các chứng cứ có tại hồ sơ cho thấy, diện tích đất đang tranh chấp đất đang tranh chấp có nguồn gốc của ông Thạch B, nhưng năm 1986, ông Thạch B đã bán cho ông Th thể hiện qua sổ mục kê đăng ký tại xã qua từng thời điểm. Ông Dương Minh T là người đăng ký kê khai diện tích đất trên từ năm 2001 đến nay. Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo không cung cấp được chứng cứ mới cho thấy việc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T và tỉnh Trà Vinh giải quyết vụ việc trên là đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ y án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào chứng cứ có tại hồ sơ, lời trình bày của người khởi kiện, quan điểm đại diện Viện Kiểm Sát. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy rằng việc Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà Thạch Thị Sa D yêu cầu hủy các Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T và Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là có căn cứ, đúng pháp luật bởi các lẽ sau:
[1] Xét về nguồn gốc đất: Diện tích đất 768,5 m2 đo thực tế còn 441,3 m2 mà bà Thạch Thị Sa D khiếu nại, các cơ quan chức năng giải quyết có nguồn gốc là của ông Trịnh B (cha của bà Thạch Thị Sa D). Những năm 1986, ông Trịnh B đã chuyển nhượng phần đất này cho ông Nguyễn Văn Th, sau khi nhận chuyển nhượng, canh tác một thời gian, ông Nguyễn Văn Th đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Thu H. Sau đó, bà H chuyển nhượng diện tích đất trên cho ông Dương Minh T. Hiện tại, ông Dương Minh T đang quản lý và sử dụng diện tích đất trên từ sau năm 1992 cho đến nay. Thể hiện việc chuyển nhượng trên qua tư liệu đăng ký lưu trữ cho thấy: Năm 1983 phần đất này thuộc thửa số 49, tờ bản đồ số 7, diện tích 1.100 m2 loại đất TQ do ông Trịnh B đứng tên trong sổ mục kê. Theo tài liệu đo đạc năm 1992 phần đất này thuộc thửa 424, tờ bản đồ số 7, diện tích 830m2, loại đất TQ do bà Nguyễn Thị Thu H đứng tên trong sổ mục kê khai. Theo tài liệu đo đạc năm 2001 phần đất này thuộc thửa số 33, tờ bản đồ số 23, diện tích 441,3m2 do ông Dương Minh T đứng tên kê khai.
Nêu số liệu thông tin đăng ký trong sổ mục kê qua từng thời điểm cho thấy, lời khai của các bên về việc chuyển nhượng diện tích đất trên là đúng, các bên có làm giấy tay chuyển nhượng cho nhau. Ông Thạch B chết năm 2004, nhưng khi còn sống ông Thạch B không có tranh chấp gì với ông Th, bà H, ông T.
[2]Thực tế diện tích đất không như ông Thạch B kê khai đăng ký ban đầu là 1.100 m2. Theo đo đạc thực tế 25/3/2013 thì diện tích đất chỉ có 768,5 m2, ngày 27/9/2013 Uỷ ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 2926/QĐ.UBND thu hồi 327,2 m2 để thực hiện công trình nạo vét kênh B, nên diện tích đất thực tế chỉ còn lại 441,3 m2.
Xét về quá trình quản lý và sử dụng từ năm 1986 ông Thạch B đã sang nhượng diện tích đất trên cho ông Nguyễn Văn Th, ông Thạch B không quản lý kê khai nên việc bà Thạch Thị Sa D khiếu nại đòi lại diện tích đất trên với lý do là đất của ông Thạch B cha bà cho người khác ở nhờ là không có căn cứ. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 232/QĐ.UBND ngày 22/1/2014. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định 1423/QĐ.UBND ngày 27/8/2014 buộc bà Thạch Thị Sa D và bà Thạch Thị V tháo dở nhà và tài sản khác có trên đất cho ông Dương Minh T là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Bà Thạch Thị Sa D kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới làm thay đổi bản chất vụ việc nên không có căn cứ để xem xét. Do đó, bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bà Thạch Thị Sa D. Giữ y án sơ thẩm.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Thạch Thị Sa D phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Thạch Thị Sa D.
Giữ y án sơ thẩm số 05/2017/HC-ST ngày 12/10/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Căn cứ Điều 30; Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 192 Luật Tố Tụng Hành Chính
Căn cứ khoản 1 Điều 48 Nghị quyết 326/2016/NQ.UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về miễn thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; khoản 2 Điều 34 pháp lệnh án phí của UBTVQH ngày 27/02/2009.
Tuyên xử:
-Bác yêu cầu khởi kiện của bà ThạchThị Sa D về việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 232/QĐ.UBND ngày 22/1/2014 của Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện T và Quyết định số 1423/QĐ.UBND ngày 27/8/2014 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.
-Về án phí: Bà Thạch Thị Sa D phải chịu 300.00đ án phí phúc thẩm. Chuyển số tiền tạm ứng án phí (Theo tờ biên lai số 0014157 ngày 26/10/2017 của Cục thi hành án tỉnh Trà Vinh) thành án phí phúc thẩm.
Các nội dung khác trong Quyết Định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên án.
Bản án 472/2019/HC-PT ngày 18/07/2019 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai
Số hiệu: | 472/2019/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 18/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về