Bản án 47/2021/HS-PT ngày 14/06/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 47/2021/HS-PT NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 42/2021/TLPT-HS ngày 02 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo Võ Thanh T, Nguyễn Thành P, Đỗ Thanh H, Lê Văn E do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2021/HS-ST ngày 20/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Võ Thanh T , sinh năm 1982; nơi cư trú : ấp 3 B, xã P, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp; Làm ruộng, trình độ học vấn:5/12; Dân tộc Kinh, giới tính: nam;Tôn giáo: không; quốc tịch Việt Nam, con ông Đỗ Đại Q (chết) và bà Võ Thị U, vợ Lê Thị Hồng T, có 2 con Tiền án : không, Tiền sự: ngày 17/4/2020 bị công an xã P, huyện T xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức đá gà ăn thua bằng tiền. Bị cáo nộp phạt xong ngày 6/5/2020.Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Thành P, sinh năm: 1976; nơi cư trú: ấp T, xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Lê Thị Bé B; có vợ là Nguyễn T và 02 con; tiền án: không; tiền sự không.Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Đỗ Thanh H, sinh năm: 1981; tại xã Q, huyện L.

Nơi cư trú: ấp 3B, xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đại Q (chết) và bà Võ Thị U; có vợ là Nguyễn Thị K và 02 con; tiền án: không; tiền sự: không.

Nhân thân: ngày 12/12/2016, bị Công an huyện T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi “Đánh bạc” bằng hình thức đá gà ăn thua bằng tiền; nộp phạt xong ngày 16/12/2016.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Lê Văn E (tên gọi khác: V), sinh năm: 1976; nơi cư trú: 163/1, ấp C, xã P, huyện L, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: làm vườn; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam;

con ông Lê Văn C (chết) và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Lê Thị L và 02 con; tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Các bị cáo không kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị :bị cáo Đinh Văn V, Nguyễn L, Nguyễn Thanh O, Lê Văn H, Đỗ Tấn Đ, Lê Văn N. Riêng bị cáo Nguyễn Văn Đ đã rút đơn kháng cáo tòa không triệu tập.

Ngoài ra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Văn M không có kháng cáo hoặc không có liên quan đến kháng cáo, tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 17/5/2020, Nguyễn Văn Đ gặp ông Huỳnh Văn M tại quán nước giải khát của Đ thuộc ấp L, xã L, huyện T, Đ hỏi mượn phần đất trống phía sau sân nhà trọ Lộc P của ông M tại ấp H, xã P, huyện L, để tổ chức đá gà thì được ông M đồng ý.

Đ dùng điện thoại số 0939.447.428 của Đ để điện vào số máy 0818.196.542 của Lê Văn E để rủ đá gà ăn thua bằng tiền. Lúc này E đang ngồi uống cà phê cùng với Đinh Văn V, Đỗ Tấn Đ, Lê Văn H và Lê Văn N, nên E rủ V, Đ, H, N cùng đi đá gà ăn thua bằng tiền thì tất cả cùng đồng ý, N và V về nhà mỗi người bắt đem theo 01 con gà trống để đi cùng với E, Đ, H đến gặp Đ đá gà ăn thua bằng tiền.

Nguyễn Văn Đ tiếp tục dùng điện thoại 0939.447.428 điện vào số máy 0775.864.050 của Nguyễn Thành P để rũ đá gà ăn thua bằng tiền, P đồng ý và rũ Nguyễn Thanh P đi cùng.

Khi nhóm người của E đế gặp Đ thì lúc này trong quán của Đ có nhiều người đang ngồi uống nước nghe thấy biết được việc đá gà ăn thua bằng tiền nên cùng đến sân nhà trọ Lộc P để tham gia.

Đ đem theo 01 cân, 02 con gà, 08 cặp cựa sắt, 14 cuộn băng keo đến sân nhà trọ Lộc Phát Đạt để tổ chức việc đá gà ăn thua bằng tiền. Lúc này khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Đ với N thỏa thuận đá trận gà thứ nhất giữa con gà trống của Đ với con gà trống của N với số tiền cá cược là 1.000.000 đồng; kết quả gà N thắng gà Đ với số tiền 1.000.000 đồng.

Trận thứ 2 thì Đ với V thỏa thuận đá con gà trống của Đ với con gà trống của V với số tiền cược là 8.000.000 đồng. Những người tham gia cá cược bắt bên gà của Đ thắng gồm: Đ tham gia 2.000.000 đồng, Võ Thanh T tham gia 1.000.000 đồng, Nguyễn Thành P tham gia 500.000 đồng, Đỗ Thanh H tham gia 1.000.000 đồng, Nguyễn Lê Hoàng tham gia 1.500.000 đồng, Nguyễn Thanh P tham gia 500.000 đồng, người thanh niên tên Tý không rõ họ tên địa chỉ cụ thể tham gia 1.500.000 đồng.

Nhng người tham gia cá cược bắt bên gà của V thắng gồm: V tham gia 1.000.000 đồng, Lê Văn E tham gia 1.500.000 đồng, Lê Văn H tham gia 1.500.000 đồng, Đỗ Tấn Đ tham gia 1.000.000 đồng, Lê Văn N tham gia 1.000.000 đồng và 02 người thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể tham gia mỗi người 1.000.000 đồng.

Khi trận gà đang diễn ra thì Công an huyện L bắt quả tang. Nguyễn Văn Đ, Võ Thanh T, Nguyễn Thành P, Đỗ Thanh H, Lê Văn E, Đinh Văn V, Nguyễn Lê H, Nguyễn Thanh P, Lê Văn H, Đỗ Tấn Đ và Lê Văn N bị cơ quan điều tra mời về làm việc.

Đối với người thanh niên tên Tý và 02 thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể, đã bỏ chạy cơ quan điều tra không mời làm việc được, khi nào điều tra được có căn cứ sẽ xử lý sau.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn Đ, Võ Thanh T, Nguyễn Thành P, Đỗ Thanh H, Lê Văn E, Đinh Văn V, Nguyễn Lê H, Nguyễn Thanh P, Lê Văn H, Đỗ Tấn Đ và Lê Văn N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đối với hành vi của Huỳnh Văn M cho Đ mượn sân chơi đá gà ăn thua bằng tiền, ông M không trực tiếp đến chỗ đá gà để chuẩn bị địa điểm cho Đ ông M cũng không có nhằm mục đích vụ lợi trong việc đá gà ăn thua bằng tiền nên hành vi của ông M chưa đủ căn cứ xử lý trách nhiệm hình sự. Ủy ban nhân dân huyện L đã ra quyết định xử phạt hành chính số tiền 7.500.000 đồng.

Tại bản án Hình sự sơ thẩm số: 02/2021/HS-ST ngày 20 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện L đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Võ Thanh T, Nguyễn Thành P, Đỗ Thanh H, Lê Văn E phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ Thanh T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành P 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Xử phạt bị cáo Lê Văn E 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38; khoản 1 Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh H 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: buộc các bị cáo Võ Thanh T, Nguyễn Thành P, Đỗ Thanh H, Lê Văn E mỗi bị cáo nộp 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, về tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”, phạt bổ sung bị cáo Đ về tội “Đánh bạc” số tiền 10.000.000 đồng; xử phạt các bị cáo khác 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và phạt bổ sung mỗi bị cáo 10.000.000 đồng; quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 25 tháng 01 năm 2021, bị cáo Võ Thanh T, Nguyễn Thành P, Đỗ Thanh H cùng có đơn kháng cáo với nội dung: yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo được hưởng án treo.

Ngày 02 tháng 02 năm 2021, bị cáo Lê Văn E có đơn kháng cáo với nội dung; yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo E, Thanh H, Thành P, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Thanh T.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Thanh T03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 65; Điều 58 Bộ luật Hình sự .Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành P 06 (sáu) tháng tù,nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 1 năm.Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Phú Đ giám sát trong thời gian thử thách.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 65; Điều 58 Bộ luật Hình sự .Xử phạt bị cáo Lê Văn E 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 1 năm.Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã P giám sát trong thời gian thử thách.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 65; khoản 1 Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh H 03 (ba) tháng tù,nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 1 năm.Giao bị cáo H cho Ủy ban nhân dân xã L giám sát trong thời gian thử thách.

Các bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo : Ngày 7/5/2020 tại khu đất trống nhà ông Huỳnh văn M ấp H, xã P, huyện L bị cáo Đ đã tổ chức cho các bị cáo T, H, P, E,V, H, P, Hà, Đ, Ntham gia đá gà thắng thua bằng tiền với tổng số tiền cá cược là 8.000.000 đồng, khi trận gà đang diễn ra thì công an huyện L bắt quả tang. Tang vật thu giữ tại hiện trường là 6 con gà trống, 1cân đồng hồ,10 cựa bằng kim loại, 4 cuộn băng keo đã qua sử dụng, 10 cuộn băng keo chưa sử dụng và 5 điện thoại di dộng và số tiền 38.750.000 đồng. Do đó, Tòa án nhân dân huyện L đã xét xử các bị cáo về tội ” Tổ chức đánh bạc” và “ Đánh bạc”. là có căn cứ đúng người, đúng tội.

2.1. Đối với kháng cáo của bị cáo Võ thanh T: kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo là không căn cứ. Bản thân bị cáo T đã có tiền sự bị xử phạt về hành vi đánh bạc vừa nộp phạt xong ngày 6/5/2020 bị cáo lại tiếp tục có hành vi đánh bạc bằng hình thức đá gà thắng thua bằng tiền, đối chiếu với Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 bị cáo không đủ điều kiện hưởng án treo. Tuy bị cáo có nộp 10.000.000 đồng tiền phạt, nhưng mức án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

2.2 Đối với kháng cáo của Đỗ Thanh H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo là không căn cứ. Bản thân bị cáo H đã bị xử phạt về hành vi đánh bạc 12/12/2016, bị cáo lại tiếp tục có hành vi đánh bạc bằng hình thức đá gà thắng thua bằng tiền, tuy bị cáo không có tiền sự, nhưng bị cáo có nhân thân xấu.Đối chiếu với Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 bị cáo không đủ điều kiện hưởng án treo. Tuy bị cáo có nộp 10.000.000 đồng tiền phạt, nhưng mức án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

2.3. Đối với kháng cáo của Lê Văn E xin được hưởng án treo là có căn cứ: Bị cáo Phượng phạm tội lần đầu, số tiền phạm tội không lớn, bị cáo không phải là chủ mưu cầm đầu, cũng không phải là bị cáo có vai trò chính trong vụ án,việc cấp sơ thẩm nhận định bị cáo E tham gia tích cực hơn các bị cáo khác là chưa chính xác vì thể hiện hồ sơ cho thấy các bị cáo Đ, bị cáo Hà thấy E đi đá gà nên xin đi theo( BL 267, 270 – Lời khai bị cáo Đ ngày 17/5/2020; BL 293 – Lời khai bị cáo H ngày 25/6/2020), các bị cáo Đ, H, N, Võ cũng xác định cùng thuê xe của người tài xế tên P cùng đi. Bị cáo N khai Đ điện thoại rủ N, N rủ E( BL 325- Lời khai ngày 12/6/2020). Trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm bị cáo E đã nộp 10.000.000 đồng tiền nộp phạt, điều này cho thấy bị cáo thật sự ăn năn, hối cải, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, không tiền án, tiền sự, bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Do đó chấp nhận kháng cáo của bị cáo E.

2.4. Đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành P xin được hưởng án treo là có căn cứ. Bị cáo P tham gia đánh bạc với số tiền không lớn, cấp sơ thẩm nhận định bị cáo có nhân thân xấu là chưa chính xác, vì tuy ngày 16/5/2020 bị cáo có hành vi lắc tài xỉu ăn thua bằng tiền, nhưng đến ngày 20/5/2020 công an xã Đ mới có quyết định xử phạt vi phạm hành chính, lần phạm tội này bị cáo phạm tội vào ngày 17/5/2020 là trước ngày có quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo thành khẩn khai báo, số tiền phạm tội không lớn.Trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm bị cáo đã nộp 10.000.000 đồng tiền nộp phạt, điều này cho thấy bị cáo thật sự ăn năn, hối cải, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, không tiền án, tiền sự, bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Do đó chấp nhận kháng cáo của bị cáo P.

[3] Lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ được chấp nhận một phần.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo của bị cáo H, T, nên các bị cáo này phải chịu án phí phúc thẩm. Do chấp nhận kháng cáo của bị cáo E, P nên 2 bị cáo này không phải chịu án phí phúc thẩm.

[5] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thanh T, Đỗ Thanh H. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn E, bị cáo Nguyễn Thành P.

Sửa bản án sơ thẩm 02/2021/HS-ST ngày 20 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện L về hình phạt đối với bị cáo Lê Văn E, bị cáo Nguyễn Thành P.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ Thanh T 06 (sáu) tháng tù về tội “ Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38; khoản 1 Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh H 03 (ba) tháng tù về tội “ Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 65; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành P 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 1 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo P cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Long giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo Lê Văn E 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 1 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo E cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Bến tre giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo E, bị cáo P thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ quốc hội qui định về mức thu, miễn,giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Võ Thanh T, Đỗ Thanh H, mỗi bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2021/HS-PT ngày 14/06/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:47/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về