Bản án 47/2021/HC-ST ngày 29/03/2021 về khiếu kiện các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 47/2021/HC-ST NGÀY 29/03/2021 VỀ KHIẾU KIỆN CÁC QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI 

Ngày 23 và ngày 29 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, tiến hành xét xử công khai vụ án hành chính sơ thẩm đã thụ lý số 78/2020/TLST- HC ngày 31 tháng 3 năm 2020 khiếu kiện yêu cầu hủy: Quyết định số 1390/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B.T.L về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết, Quyết định số 3058/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B.T.L về việc giải quyết khiếu nại lần 1. Quyết định số 6903/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về việc giải quyết khiếu nại lần 2. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/QĐXX-ST ngày 05/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2021/QĐST-HC ngày 16/03/2021, giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Bà N.T.D , sinh năm 1940; Có mặt) Địa chỉ: TDP Y.N 2, phường L.M, quận B.T.L, thành phố Hà Nội Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Phan Hào (Có mặt) Địa chỉ: TDP Trung 6, phường Tây Tựu, quận B.T.L, thành phố Hà Nội Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Ngọc (Có mặt) Địa chỉ: TDP Trung 6, phường Tây Tựu, quận B.T.L, thành phố Hà Nội.

Người bị kiện:

1. Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội;

Trụ sở: Số 79 phố Đinh Tiên Hoàng, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

2. UBND quận B.T.L, thành phố Hà Nội;

3. Chủ tịch UBND quận B.T.L, thành phố Hà Nội;

Người đại diện theo pháp luật: Ông L.N.H– chức vụ: Chủ tịch UBND quận B.T.L.

(Vắng mặt tại phiên tòa) Trụ sở : Tòa nhà CT6A, Khu đô thị Kiều Mai, đường Kiều Mai, phường Phúc Diễn, quận B.T.L, thành phố Hà Nội.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND quận B.T.L: Ông N.Q.T – Cán bộ Trung tâm phát triển quỹ đất UBND quận B.T.L. (có mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. UBND phường L.M;

Đại diện theo ủy quyền là ông Đ.M.H – phó chủ tịch

2. Hợp tác xã Y.N:

Đại diện theo pháp luật: Ông N.V.C – Chức vụ giám đốc Trụ sở làm việc: Số 101/1 đường L.M, phường L.M, quận B.T.L, thành phố Hà Nội.

3. Chị N.T.H, sinh năm 1978; (Vắng mặt)

4. Chị N.T.P, sinh năm 1983(Vắng mặt)

5. Anh N.T.T, sinh năm 1980(Vắng mặt) Địa chỉ: TDP Y.N 2, phường L.M, quận B.T.L, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ông N.T.D trình bày: Năm 1981gia đình bà D được Hợp tác xã Y.N giao diện tích đất nông nghiệp để sản xuất theo mô hình kinh tế hộ (có xác nhận của HTX Y.N) với diên tích 1.170m2 . Năm 2000 gia đình bà được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 918 m2 bao gồm: Thửa đất số 71, tờ bản đồ 15, diện tích 315m2 ; Thửa đất 361, tờ bản đồ 15, diện tích 196m2; Thửa đất 452, tờ bản đồ 15, diện tích 407m2 . Diện tích còn lại 252 m2 đất nông nghiệp tại thửa đất số 144, tờ bản đồ 20, cũng được giao từ năm 1981 nhưng gia đình bà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Diện tích đất này gia đình bà sử dụng ổn định từ khi giao nhận khoán đến nay và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế với Nhà nước.

Ngày 11/4/2016, UBND quận B.T.L đã ban hành Quyết định số 1319/QĐ-UBND thu hồi 252m2 đất để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học Hà Nội trên địa bàn phường L.M và Quyết định số 1390/QĐ –UBND về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết cho gia đình bà. Sau đó gia đình bà đã khiếu nại lên UBND quận B.T.L, Ngày 29/7/2016 bà nhận được Quyết định số 3058/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B.T.L về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà nội dung không chấp nhận đơn khiếu nại, giữ nguyên các quyết định.

Sau khi gia đình bà nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại số 3058/QĐ- UBND của Chủ tịch UBND quận B.T.L, gia đình bà đã làm đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.

Ngày 05/07/2019 gia đình bà đã nhận được Quyết định số 6903/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố về việc giải quyết khiếu nại lần 2.

Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của UBND thành phố nên Bà D đã khởi khiện đến Tòa án.

Quan điểm của bà D đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử: Hủy các quyết định giải quyết khiếu nại và QĐ số 1390. Buộc UBND quận B.T.L bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho gia đình bà theo quy định của pháp luật.

Quan điểm Người bị kiện là UBND và Chủ tịch quận B.T.L:

Ngày 22/6/2015, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã ban hành thông báo số 64/TB-HĐBTHT&TĐC về việc niêm yết công khai lấy ý kiến đối với 74 dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án: Xây dựng khu công nghệ cao sinh học, trong đó có hộ gia đình bà N.T.D.

Ngày 11/4/2016, UBND quận B.T.L đã ban hành Quyết định số 1319/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học Hà Nội với nội dung: “Thu hồi 252m2 đất nông nghiệp không giao do UBND phường L.M quản lý (thuộc thửa 144, tờ bản đồ 20, bản đồ đo năm 1994 phường L.M) hiện hộ gia đình bà N.T.D hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố Y.N 2, phường L.M, quận B.T.L đang sử dụng trước ngày 01/7/2004”.

Ngày 11/4/2016, UBND quận B.T.L đã ban hành Quyết định số 1390/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình bà N.T.D tại dự án với nội dung bồi thường, hỗ trợ về đất, cây trồng, vật nuôi và các công trình trên đất. Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 92.610.505 đồng, cụ thể:

- Bồi thường, hỗ trợ về đất: 50.803.200 đồng.

- Bồi thường, hỗ trợ về hoa màu: 32.736.000 đồng.

- Bồi thường, hỗ trợ công trình: 9.071.305đồng (Trong đó: công trình xây dựng trước 15/10/1993 được hỗ trợ bằng 80% đơn giá, công trình xây dựng sau ngày 01/7/2004 được hỗ trợ bằng 10% đơn giá).

Việc giải quyết khiếu nại:

UBND quận B.T.L nhận được đơn của bà N.T.D, địa chỉ: TDP Y.N 2, phường L.M, quận B.T.L về việc khiếu nại Quyết định số 1319/QĐ-UBND và Quyết định số 1390/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B.T.L về việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình bà N.T.D khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Khu công nghệ cao sinh học tại phường L.M, quận B.T.L.

Ngày 30/5/2016, UBND quận B.T.L ban hành Thông báo số 799/TB-UBND về việc thụ lý giải quyết khiếu nại của bà N.T.D.

Ngày 30/5/2016, Chủ tịch UBND quận B.T.L ban hành Quyết định số 2123/QĐ- UBND về việc xác minh nội dung khiếu nại.

Ngày 04/8/2016, Chủ tịch UBND quận B.T.L đã ban hành Quyết định số 3058/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà N.T.D, địa chỉ: Tổ dân phố Y.N, phường L.M, quận B.T.L (lần đầu).

Theo đó, Chủ tịch UBND quận B.T.L giải quyết khiếu nại theo hướng:

“- Giữ nguyên Quyết định số 1319/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 và Quyết định số 1390/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B.T.L về việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết đối với hộ gia đình bà N.T.D khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Xây dựng Khu công nghệ cao sinh học tại phường L.M, quận B.T.L.

- Giao Hội đồng bồi thường hỗ trợ và tái định cư Quận xem xét trình UBND Quận phê duyệt bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ cho hộ gia đình bà N.T.D) theo hướng: Bồi thường 100% đơn giá công trình xây dựng đối với các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp theo quy định của pháp luật.” Bà N.T.D không đồng ý với nội dung giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND quận B.T.L tại Quyết định số 3058/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 và tiếp tục có đơn khiếu nại lần 2 gửi Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.

Ngày 15/12/2016, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 6903/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà N.T.D địa chỉ: Tổ dân phố Y.N 2, phường L.M, quận B.T.L (lần hai).

Theo đó, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội giải quyết khiếu nại theo hướng: “Đồng ý Quyết định số 3058/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B.T.L về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà N.T.D về việc không áp dụng chính sách hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm (mức hỗ trợ bằng 5 lần giá đất nông nghiệp) đối với 252m2 đt nông nghiệp thuộc thửa số 144, tờ bản đồ 20 bản đồ đo năm 1994, khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng khu công nghệ cao sinh học Hà Nội tại phường L.M, quận B.T.L”.

Đến nay UBND quận B.T.L chưa ban hành Quyết định phê duyệt bổ sung phương án BTHT cho hộ gia đình N.T.D theo Quyết định số 3058QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B.T.L do dự án Xây dựng công nghệ cao sinh học chưa được gia hạn triển khai thực hiện dự án và chưa được ứng vốn nên chủ đầu tư chưa có cơ sở thực hiện.

Quan điểm của UBND quận B.T.L và Chủ tịch UBND Quận Diện tích 252m2 đất do hộ gia đình N.T.D đang sử dụng bị thu hồi để thực hiện dự án Khu công nghệ cao sinh học là đất nông nghiệp không được giao theo Nghị định 64/CP; Do đó, ngày 11/4/2016, UBND quận B.T.L ban hành Quyết định số 1319/QĐ- UBND về việc thu hồi 252m2 đất nông nghiệp không giao và Quyết định số 1390/QĐ- UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình bà N.T.D đã bồi thường 01 lần giá đất nông nghiệp là đúng với quy định tại khoản 2, Điều 77, Luật Đất đai năm 2013, không tính hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm bằng 5 lần giá đất nông nghiệp là đúng quy định tại khoản 1, Điều 20, Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

Chủ tịch UBND quận B.T.L đã ban hành Quyết định số 3058/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đối với bà N.T.D tại dự án: Xây dựng Khu công nghệ cao sinh học Hà Nội là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, nội dung đảm bảo quy định của pháp luật.

Căn cứ quy định pháp luật và từ những phân tích, tổng hợp nêu trên cũng như người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản không cung cấp thêm bất cứ giấy tờ, tài liệu nào khác. Do vậy, UBND quận B.T.L và Chủ tịch UBND quận B.T.L giữ nguyên các quyết định hành chính và các văn bản hành chính đã ban hành đối với hộ gia đình bà N.T.D địa chỉ Tổ dân phố Y.N, phường L.M, B.T.L khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Khu công nghệ cao sinh học tại phường L.M, quận B.T.L.

Quan điểm của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội:

Sau khi kiểm tra, rà soát hồ sơ giải quyết khiếu nại của bà N.T.D. Chủ tịch UBND thành phố khẳng định nội dung Quyết định số 6903/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 về việc giải quyết khiếu nại của bà N.T.D là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ngưi có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quan điểm:

* Quan điểm của UBND phường L.M:

- Trên cơ sở phương án giao đất nông nghiệp tổng thể đã được các cấp phê duyệt, UBND xã L.M (nay là Phường L.M) lập phương án giao đất nông nghiệp chi tiết cho từng hộ gia đình, cá nhân, theo từng Hợp tác xã. Đối với HTX Y.N giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân tính theo bình quân nhân khẩu trong hộ là 258 m2/khẩu.

- Khi thực hiện việc giao đất theo Nghị định 64/CP của Chính phủ, diện tích đất của các hộ gia đình, cá nhân không được đưa vào trong phương án giao đất chi tiết để cân đối giao cho các hộ gia đình, cá nhân.

- Về hiện trạng diện tích đất bị thu hồi của các hộ gia đình, cá nhân:

Hiện trạng các hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất để trồng rau, hành, hoa hồng, hoa cúc và cau vua.

- Khi xác nhận nguồn gốc đất cho các hộ gia đình, cá nhân có đất nông nghiệp nằm trong chỉ giới GPMB dự án Khu công nghệ cao sinh học Hà Nội, UBND phường L.M căn cứ vào hồ sơ địa chính lưu tại ƯBND phường (Bản đổ và sổ mục kê đất năm 1994, Phương án giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP của Chính phủ lập năm 1999 và hiện trạng các hộ gia đình, cá nhân đang sử dung).

Quan điểm của Hợp tác xã Y.N:

Căn cứ hồ sơ tài liệu còn lưu giữ tại HTX Y.N về việc quản lý sử dụng diện tích đất sản xuất của các hộ gia đình cá nhân trong HTX Hợp tác xã Y.N có ý kiến như sau:

Hộ gia đình bà D được HTX Y.N giao đất sản xuất nông nghiệp bao gồm cả phần diện tích khu Sống cao từ thời điểm khoán 100 năm 1981 theo chỉ thị 100/CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư về việc cải tiến hình thức giao khoán mở rộng đến từng hộ gia đình cá nhân. Tại thời điểm giao đất không có biên bản giao bằng giấy mà giao bằng miệng trực tiếp tại hiện trường và quản lý theo phương án thu sản phẩm một năm hai vụ của hợp tác xã, tuy nhiên do thời gian lâu ngày lên phương án thời điểm đó bị mối mọt xông không còn lưu trữ được. Đến năm 1988, khi thực hiện hình thức khoán 10 theo Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị thì diện tích sản xuất của hộ gia đình bà D vẫn không thay đổi mà chỉ thay đổi sản lượng giao khoán. Năm 1994, khi lập bản đồ hiện trạng diện tích khu Sống cao của hộ bà D được ghi số thửa 144, tờ bản đồ 20, diện tích 252 m2.

Năm 1999, khi thực hiện giao đất nông nghiệp theo nghị định 64-NĐ/CP của Chính phủ thì địa phương (hội đồng giao đất xã) chỉ lập phương án cân đối trên giấy tờ chứ không giũ ra giao lại trong đó chỉ cân đối đất lúa hai vụ còn đất trồng màu gồm khu Sống cao và đất bãi ngoài đê trung ương giữ nguyên không đưa vào cân đối. Chính vì vậy toàn bộ diện tích các hộ đang sử dụng gần như không có xáo trộn gì và hầu như người dân không quan tâm đến việc có được cấp giấy chứng nhận hay không vì họ vẫn sản xuất ổn định bình thường, vẫn giao nộp đầy đủ nghĩa vụ tài chính với HTX từ năm 1981 đến nay.

Vì vậy, HTX Y.N xác nhận hộ bà D vẫn sản xuất ổn định trên tổng diện tích được giao từ năm 1981 trong đó có phần diện tích khu sống cao thuộc thửa số 144 tờ bản đồ 20 hiện đang thuộc vị trí thu hồi thực hiện dự án khu Công nghệ cao sinh học Hà Nội. Thực hiện đóng, nộp đầy đủ nghĩa vụ tài chính với nhà nước và HTX từ năm 1981 đến nay.

Tại phiên tòa: Người khởi kiện giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc UBND quận B.T.L bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho gia đình bà theo quy định của pháp luật.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán; Hội đồng xét xử tại phiên tòa:

đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Người khởi kiện và người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được thực hiện đầy đủ các quy định về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 55, 56, 57, 58, việc ủy quyền tham gia tố tụng của đương sự được thực hiện theo quy định tại Điều 60 Luật TTHC.

Căn cứ Điều 3; Điều 30, khoản 4 Điều 32 Luật TTHC, Luật đất đai 2013; Luật tổ chức chính quyền địa phương, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Nghị quyết 326/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N.T.D Về án phí: Do đơn khởi kiện không được chấp nhận nên bà D phải chịu án phí HCST. Tuy nhiên, bà D là người cao tuổi căn cứ Nghị quyết bà D được miễn án phí Hành chính sơ thẩm trong trường hợp có đơn xin miễn giảm án phí.

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về tố tụng

[1] Về thẩm của Tòa án: Việc bà N.T.D có đơn khởi kiện đề nghị Hủy Quyết định số 1390/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B.T.L về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết; Quyết định số 3058/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B.T.L về giải quyết đơn khiếu nại lần đầu; Quyết định số 6903/QĐ- UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch thành phố Hà Nội. Đây là quyết định Hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai. Do đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 3, Điều 30, khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền

[2] Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt lần thứ hai. Căn cứ khoản 2 Điều 157 của Luật tố tụng hành chính, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử vắng mặt.

[3] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 19/11/2019 bà D gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với yêu cầu Hủy Quyết định hành chính số Quyết định số 6903/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố về giải quyết khiếu nại lần 2; Quyết định số 1390/QĐ-UBND ngày 11/4/2016, Quyết định số 3058/QĐ-UBND ngày 29/7/2016. Như vậy việc khởi kiện của Bà D xác định trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.

Quyết định số 6903/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố về giải quyết khiếu nại lần 2, gia đình bà D không nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội. Hội đồng xét xử xác định ngày bà N.T.D nhận được Quyết định số 6903/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố về giải quyết khiếu nại lần 2, là ngày 22/7/2019 để tính thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 116 Luật tố tụng hành chính để đảm bảo quyền lợi cho người khởi kiện.

[4] Xét các quyết định bị khiếu kiện:

* Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành các Quyết định:

Ngày 11/4/2016, UBND quận B.T.L ban hành Quyết định số 1319/QĐ-UBND về việc thu hồi đất; Quyết định số 1390/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ là đúng thẩm quyền theo quy đinh tại theo quy định tại khoản 2 Điều 66 và điểm a khoản 2 Điều 69 Luật Đất đai. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật đất đai; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Ngày 29/7/2016, Chủ tịch UBND quận B.T.L ban hành Quyết định số 3058/QĐ- UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại lần đầu.

Ngày 15/12/2016 Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 6903/QĐ- UBND là đúng thẩm quyền và trình tự thủ tục theo quy định tại Điều 17, 18 Luật Khiếu nại 2011; Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015;

* Về nội dung các quyết định - Đối với Quyết định số 1319/QĐ-UBND về việc thu hồi đất; Quyết định số 1390/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của UBND quận B.T.L về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết cụ thể:

Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 92.610.505 đồng, cụ thể:

- Bồi thường, hỗ trợ về đất: 50.803.200 đồng.

- Bồi thường, hỗ trợ về hoa màu: 32.736.000 đồng.

- Bồi thường, hỗ trợ công trình: 9.071.305đồng (Trong đó: công trình xây dựng trước 15/10/1993 được hỗ trợ bằng 80% đơn giá, công trình xây dựng sau ngày 01/7/2004 được hỗ trợ bằng 10% đơn giá) Nhận thấy nguồn gốc đất: Thực hiện việc giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP, hộ gia đình bà D được giao theo phương án là 774m2 đất nông nghiệp (gồm 3 nhân khẩu x 258m2 = 774m2), hiện tại hộ gia đình bà D đang sử dụng 1.170m2 và đã được UBND huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 918 m2 đất nông nghiệp. So với hạn mức nhân khẩu trong phương án giao đất thừa 144 m2 . Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp gia đình bà D không có ý kiến gì.

Đối với diện tích 252m2 đất nông nghiệp hiện gia đình bà D đang sử dụng tại khu Sống cao gồm thửa đất số 144, tờ bản đồ 20, bị thu hồi không nằm trong hạn mức giao đất theo Nghị định 64/CP. Việc này được nghi nhận tại đại hội Hợp tác xã Y.N đã có sự thống nhất tại hội nghị theo Nghị Quyết ngày 06/6/1999 không kê khai đất nông nghiệp tại khu Sống Cao để cân đối giao đất theo Nghị định 64/Cp.

Bà D và đại diện Hợp tác xã Y.N cho rằng diện tích đất thu hồi là đất mà hộ gia đình bà đã được giao khoán theo khoán 100 từ năm 1981, nhưng bà D không cung cấp được giấy tờ, tài liệu chứng mình quyền sử dụng đối với diện tích đất 252m2.

Do đó, xác định diện tích 252m2 đất hộ gia đình bà D sử dụng có nguồn gốc là đất nông nghiệp không nằm trong hạn mức giao đất theo Nghị định 64/CP mà thuộc quỹ đất nông nghiệp không giao do UBND phường L.M quản lý.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 83 Luật đất đai 2013; khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 20 – Nghị định 47/2014/NĐ-CP, UBND quận B.T.L không bồi thường hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; không hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với hộ gia đình bà D là có căn cứ. Do đó, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D về việc hủy Quyết định số 1390/QĐ-UBND của UBND quận B.T.L.

Việc bà D và UBND phường L.M trình bày có một số hộ đã được chấp nhận bồi thường hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm năm 2017, tuy nhiên Tòa án nhân cấp cao tại Hà Nội ban hành Quyết định giám đốc thẩm năm 2020 hủy toàn bộ bản án sơ thẩm trên để xét xử lại theo thẩm quyền. Thực tế hộ gia đình bà D bị thu hồi đất nông nghiệp vào năm 2016 nên không được áp dụng Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 chưa có hiệu lực pháp luật. Tại Điều 5 của Nghị định có quy định về Điều khoản chuyển tiếp như sau: “Trường hợp đã có quyết định thu hồi đất và có phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê duyệt theo quy định của pháp luật về đất đai trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện theo phương án đã phê duyệt và không áp dụng theo quy định của Nghị định này”. Như vậy, trường hợp của hộ gia đình bà D không được áp dụng các quy định của Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 để được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm bằng 5 lần giá đất nông nghiệp.

Đối với yêu cầu của hộ gia đình bà N.T.D về việc bồi thường 100% đơn giá công trình xây dựng đối với các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp. Việc này đã được xem xét giải quyết tại Quyết định số 3058/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B.T.L về việc giải quyết khiếu nại lần đầu cụ thể“Giao Hội đồng bồi thường hỗ trợ và tái định cư Quận xem xét trình UBND Quận phê duyệt bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ cho hộ gia đình bà N.T.D theo hướng: Bồi thường 100% đơn giá công trình xây dựng đối với các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp theo quy định của pháp luật.” Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của bà D về việc bồi thường 100% đơn giá công trình xây dựng đối với các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp đã được Chủ tịch ủy ban nhân dân quận B.T.L xem xét tại quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, đã đảm bảo quyền lợi cho người khởi kiện. Tuy nhiên đến nay UBND quận vẫn chưa phê duyệt phương án bổ sung nên HĐXX kiến nghị UBND thực hiện theo quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.

* Đối với Quyết định số 3058/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B.T.L về việc giải quyết khiếu nại lần đầu và Quyết định số 6903/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về việc giải quyết khiếu nại lần 2.

UBND quận B.T.L ban hành các Quyết định số 1390/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết khi nhà nước thu hồi đất, đảm bảo có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Do vậy, Quyết định số 3058QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch UBND quận B.T.L; Quyết định số 6903/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội là phù hợp với quy định của pháp luật. Việc bà D khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định là không có căn cứ.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Về án phí: Do đơn khởi kiện không được chấp nhận nên bà D phải chịu án phí HCST. Tuy nhiên, bà D là người cao tuổi đã có đơn xin miễn án phí nên căn cứ nghị quyết bà D được miễn án phí Hành chính sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 204 và Điều 206 Luật Tố tụng hành chính.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 3, khoản 1Điều 30, Điều 32, khoản 1 Điều 158; Khoản 1, Điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194; Điều 204; Điều 206; Khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 66, Điều 69; Điều 82 Luật Đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 20 – Nghị định 47/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013;

Căn cứ luật Khiếu nại; Luật Phí và Lệ phí; Nghị quyết 326/2016 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: 1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà N.T.D về việc yêu cầu hủy các quyết định:

- Quyết định số 1390/QĐ-UBND ngày 11/4/2016 của Ủy ban nhân dân quận B.T.L về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ;

- Quyết định số 3058/QĐ-UBND ngày 29/7/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận B.T.L về giải quyết khiếu nại lần đầu.

- Quyết định số 6903/QĐ-UBND ngày 15/12/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về giải quyết khiếu nại lần hai.

- Bác yêu cầu về việc buộc UBND quận B.T.L ra quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho gia đình bà D số tiền 294.176.075 đồng.

2. Về án phí hành chính sơ thẩm: Miễn án phí Hành chính sơ thẩm cho bà N.T.D

3. Về quyền kháng cáo: Người khởi kiện có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ; Người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

415
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2021/HC-ST ngày 29/03/2021 về khiếu kiện các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai 

Số hiệu:47/2021/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 29/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về